SKKN Nâng cao hiệu quả giải toán có lời văn bằng hai phép tính lớp 3
Ngày đăng: 23/03/2025 22:01
Ngày đăng: 23/03/2025 22:01
Trong nền giáo dục hiện nay, thế kỉ XXI đã thực sự trở thành thế kỉ của khoa học kĩ thuật, làn sóng phát triển mạnh mẽ và nhanh chóng của khoa học kĩ thuật đã thu hút tất cả mọi người vào vòng xoay của nó. Vì vậy, nhiệm vụ của các trường tiểu học hiện nay không chỉ dừng ở mức độ đào tạo những em học sinh ngoan, chăm học, có lòng yêu nước mà cần phải hình thành và phát triển ở các em những phẩm chất năng lực của người công dân Việt Nam trong thời kỳ mới: “Năng động, sáng tạo, tự chủ, có ý chí vươn lên, có năng lực tự học và có thói quen học tập suốt đời, ham hiểu biết và có niềm tự hào dân tộc”. Trách nhiệm của người giáo viên tiểu học là vô cùng nặng nề và cũng rất vẻ vang bởi tiểu học là cấp học nền tảng của nền giáo dục Nước nhà.
Chính vì lẽ đó, ngoài mục tiêu chủ yếu là bồi dưỡng kĩ năng tính toán thì giờ đây môn toán ở tiểu học còn phải chú ý phát triển tư duy, bồi dưỡng phương pháp suy luận cho các em, tạo cho các em niềm say mê hứng thú trong học tập, tích lũy kiến thức để có thể tiếp nhận được các thành tựu khoa học kĩ thuật mới nhất đang được sáng tạo hằng ngày, hằng giờ, tiếp cận với những thách thức khoa học kĩ thuật của thế kỉ XXI.
Ở cấp tiểu học qua thực tế giảng dạy tôi nhận thấy đa số các em học sinh rất thích học toán nhưng cũng rất sợ những bài toán có lời văn, tại sao như vậy? Là giáo viên giảng dạy lâu năm tôi thấy có rất nhiều nguyên nhân nhưng nguyên nhân chính là các em chưa biết cách tư duy và suy luận đề toán. Vì vậy, còn lúng túng trong khi giải, mặt khác giáo viên cũng chưa tìm hết mọi biện pháp và giúp học sinh phát triển tư duy và vận dụng kiến thức đó một cách linh hoạt và sáng tạo trong học tập.Qua thực tế giảng dạy lớp 3 nhiều năm nhất là trường tiểu học .............. chúng tôi đang áp dụng Mô hình trường học mới (VNEN) là một trong những mô hình nhà trường hướng tới việc đổi mới phương pháp dạy học. Nhằm tạo điều kiện cho học sinh phát huy tính tích cực, độc lập, phát triển năng lực tự học, năng lực tự tìm tòi, khám phá, sáng tạo. Nhất là về môn Toán ở trường tiểu học .............. tôi thấy chất lượng rất cao nhưng riêng đối với những bài toán có lời văn hiều em còn lúng túng trong khi tìm cách giải nhất là phần lời giải các em làm chưa chính xác. Đúng phần này rất khó bởi phần này đòi hỏi các em phải nắm vững những kiến thức đã học, các em phải biết những thuật ngữ được dùng trong bài giải để áp dụng vào từng bài cụ thể. Để giúp các em phần nào bớt lúng túng khi học phần này nên tôi đã chọn đề tài "Nâng cao hiệu quả giải toán có lời văn bằng hai phép tính lớp 3" nhằm nâng cao chất lượng dạy học nói chung và dạy môn Toán nói riêng.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài.
Tôi nghiên cứu đề tài này nhằm giúp các em học sinh lớp 3 biết cách làm thành thạo các dạng toán có lời văn bằng hai phép tính một cách dễ dàng.
Học sinh bậc tiếu học nói chung và học sinh lớp 3A3 nói riêng của trường tiểu học ..............
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu.
Nghiên cứu quá trình dạy học lớp 3 năm học 2022 – 2023 và các tài liệu giảng dạy toán lớp 3 về dạng toán giải có lời văn bằng hai phép tính để từ đó có giải pháp tốt nhất cho học sinh yêu thích môn học này.
5. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp đọc sách
- Phương pháp trực quan
- Phương pháp gợi mở vấn đáp
- Phương pháp phỏng vấn đàm thoại.
- Phương pháp so sánh phân tích.
Trong quá trình dạy học chương trình Toán tiểu học ở lớp 3 tôi nhận thấy việc dạy cho học sinh nắm bắt được nội dung chương trình Toán lớp 3 là vô cùng quan trọng. Đặc biệt phần giải toán có lời văn bằng hai phép tính chiếm một vị trí không nhỏ trong việc học Toán. Nó góp phần cung cấp cho học sinh một lượng kiến thức sơ giản về cách tính toán thông qua các dạng bài tập sau:
- Dạng bài toán giải bằng hai phép tính (hai phép tính cộng)
- Dạng bài toán giải bằng hai phép tính (một phép tính nhân và một phép tính cộng)
- Dạng bài toán giải bằng hai phép tính (một phép tính chia và một phép tính cộng)
- Dạng bài toán giải bằng hai phép tính (dạng toán trút về đơn vị, một phép tính chia và một phép tính nhân)
Như chúng ta đã biết muốn học sinh biết cách giải toán có lời văn giải bằng hai phép tính thì đòi hỏi các em phải đọc thông, viết thạo và phải có vốn hiểu biết và tư duy tốt thì các em mới giải tốt dạng toán này. Bởi vậy tôi đặc biệt chú trọng nghiên cứu tìm giải pháp tốt nhất để dạy cho học sinh hiểu đề toán một cách nhanh nhất có kỹ năng sử dụng nhận dạng toán tốt hơn.
2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu.
Năm học 2022-2023 tôi nhận lớp có tổng số học sinh: 28em, trong đó:
- Nữ: 15 em
- Dân tộc: 6 em
- Nữ dân tộc: 3 em
Đề tài được nghiên cứu trong thời gian tôi trực tiếp giảng dạy lớp 3A3 cho nên rất thuận lợi. Đa số học sinh ngoan và chăm học, hăng say xây dựng bài, sách vở và dụng cụ học tập đầy đủ, phụ huynh học sinh quan tâm chăm lo cho con em mình. Nhất là Ban giám hiệu nhà trường chuẩn bị đầy đủ đồ dùng dạy học cũng như tài liệu tham khảo cho giáo viên. Bản thân tôi thường xuyên dự giờ thăm lớp, được các đồng chí đồng nghiệp góp ý kiến hay, tạo điều kiện thuận lợi cho tôi nghiên cứu đề tài này thành công và đã đưa vào áp dụng giảng dạy đạt hiệu quả cao.
Tuy có nhiều thuận lợi song cũng gặp không ít khó khăn, trong lớp có một số em các em đọc chưa được trôi chảy, hiểu bài chậm nên một phần ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình học tập của các em. Mỗi khi làm toán giải hầu hết các em thường làm lời giải chưa chính xác. Trong phép tính các em làm đúng nhưng có một số em còn ghi sai các danh số của bài toán.
Năm nhận lớp tôi nhận thấy mỗi khi học sinh làm bài toán dạng toán giải có lời văn nhất là toán giải bằng hai phép tính các em làm bài thường không hiểu cách tóm tắt bài toán hoặc hay làm sai lời giải, sai phép tính, sai các danh số. Tôi ra một số bài giải bằng hai phép tính và yêu cầu các em làm bài thì kết quả đạt như sau:
Hoàn thành tốt |
Hoàn thành |
Chưa hoàn thành |
|||
Số lượng |
% |
Số lượng |
% |
Số lượng |
% |
6/28 |
21,4 |
13/28 |
46,5 |
9/28 |
32,1 |
Chính vì thế tôi luôn nghĩ phải sử dụng phương pháp như thế nào để học sinh dễ hiểu bài nhất và từ những kinh nghiệm thực tế tôi đã áp dụng vào dạy lớp tôi thì kết quả đạt rõ rệt.
- Là một giáo viên đứng lớp tôi luôn trăn trở, tìm ra những hình thức tổ chức dạy học hay nhất nhằm giúp các em nắm chắc nội dung từng bài học để nâng cao kết quả trong học tập.
- Từ chất lượng khảo sát đầu năm của học sinh chưa cao.
- Trong quá trình dạy học nếu như giáo viên biết thay đổi phương pháp phù hợp, dẫn dắt các em từng bước chắc chắn thì tỉ lệ học sinh không làm được bài sẽ giảm xuống rất nhiều. Từ chỗ rất sợ toán có lời văn, các em đã có hứng thú với bài toán có lời văn, tạo được hứng thú học tập cho các em. Đó cũng là một thành công lớn trong nghề dạy học của chúng ta. Nếu trong mỗi giáo viên chúng ta ai cũng có lòng yêu nghề, mến trẻ, luôn tâm huyết, tận tâm với nghề của mình thì sẽ luôn tìm hiểu kĩ những tâm lí của học sinh, biết học sinh của mình đã và đang học được những gì. Để từ đó mình phải tìm cách đổi mới phương pháp dạy và học cho các em thì kết quả học tập của các em sẽ luôn được nâng cao.
- Là một người giáo viên đứng lớp tôi phải nắm chắc được nội dung chương trình, cấu trúc sách giáo khoa, kế hoạch từng bài dạy cụ thể. Từ đó giáo viên sẽ hướng cho các em biết cách học sao cho tốt, đưa các em vào nề nếp học một cách nghiêm túc, hình thành ở các em thói quen tư duy tốt trong học tập.
- Nếu như trong quá trình dạy học giáo viên hướng dẫn học sinh biết thực hiện linh hoạt, cụ thể trong từng bài toán thì việc giải những bài toán có lời văn bằng hai phép tính trở nên đơn giản và dễ dàng hơn rất nhiều. Bản thân tôi thường chú ý tới biện pháp sau:
* Đối với học sinh:
- Tôi thường xuyên nhắc nhở các em ý thức học.
- Kiểm tra bài cũ thường xuyên. Nhắc nhở các em chuẩn bị sách vở và đồ dùng học tập.
- Tôi thường xuyên quan tâm, gần gũi với các em, nghe các em tâm sự những khó khăn trong việc học toán của mình. Để từ đó tìm ra cách tháo gỡ.
- Đối với việc hình thành giải toán có lời văn tôi luôn cẩn thận yêu cầu các em thực hiện nghiêm túc và đầy đủ từng bước để tránh những sai sót trong khi làm bài.
- Học sinh phải chủ động, tích cực nắm kiến thức, tích cực làm việc và các em đóng vai trò quan trọng là một nhân vật trọng tâm trong quá trình dạy học.
- Các em tự học hỏi làm các bài tập nâng cao nếu các em không biết thì hỏi bạn, hỏi thầy cô hay hỏi bố, mẹ, anh, chị hoặc người thân trong gia đình.
- Các em biết biện luận cho đáp số của mình với nhiều trường hợp có nhiều khả năng xảy ra.
* Đối với giáo viên:
- Là một người giáo viên đứng lớp phải tận tâm, tận tụy với nghề. Thực sự là một người có tâm huyết, yêu thương học trò. Luôn luôn học hỏi, tìm tòi để tìm ra những phương pháp, hình thức dạy học phù hợp nhất với đối tượng học sinh lớp mình.
- Trong mỗi tiết dạy, mỗi dạng toán cần tìm ra cách giải hay nhất, dễ hiểu nhất.
- Điều quan trọng là phải biết tạo hứng thú học tập cho học sinh. Muốn vậy người giáo viên phải tìm tòi, đổi mới phương pháp dạy học, trong từng tiết dạy phải sử dụng đồ dùng có hiệu quả, tạo cho các em tinh thần thoải mái trong khi học.
- Giáo viên phải biết tổ chức cho học sinh học tập có nề nếp, giúp học sinh chủ động học tập một cách tự giác, say mê, sáng tạo.
- Khi nhận xét, đánh giá bài của các em phải chính xác, kịp thời. Giáo viên cần khen, động viên kịp thời để khuyến khích các em học tập.
Trong quá trình giảng dạy, để giúp học sinh vận dụng các kiến thức đã học về toán cộng, trừ, nhân, chia vào giải toán có lời văn. Bản thân tôi đã nghiên cứu, tìm tòi được một số kinh nghiệm và bước đầu đã đem lại kết quả.
- Bằng kinh nghiệm của mình tôi đã áp dụng vào giảng dạy lớp 3A3 năm học 2019 – 2020 và không ngừng tìm tòi và học hỏi thêm. Nhằm giúp các em tập dượt cách suy nghĩ để tìm ra phương pháp học và cách giải toán khi tự làm hoặc dưới sự hướng dẫn của thầy cô. Chất lượng mũi nhọn ở lớp tôi đã được nâng cao.
- Trong những năm tôi giảng dạy lớp 3 tôi thấy hầu hết các em tiếp thu toán giải có lời văn bằng hai phép tính còn hạn chế. Bởi vậy tôi luôn tìm mọi giải pháp giúp học sinh hiểu bài tốt hơn.
- Trong từng tiết dạy tôi luôn tìm cách giảng đơn giản nhưng dễ hiểu nhất để học sinh tiếp thu bài tốt.
- Mỗi khi giải toán có lời văn bằng hai phép tính tôi luôn giúp học sinh tìm hiểu được những dữ kiện đã cho và những dữ kiện cần tìm.
- Giúp học sinh xác định đúng các dạng toán trong từng bài cụ thể.
- Học sinh biết làm thành thạo các bài toán có lời văn bằng hai phép tính.
Với chương trình học mới hầu hết các em tự tìm tòi, tự khám phá, phát triển năng lực tự học, sáng tạo. Bởi vậy, vai trò của người giáo viên là vô cùng quan trọng. Đòi hỏi giáo viên phải nâng cao trình độ chuyên môn, đổi mới phương pháp và hình thức dạy học phù hợp với đối tượng học sinh lớp mình.
Một số hoạt động giúp học sinh vận dụng những kiến thức đã học vào giải những bài toán có lời văn bằng hai phép tính.. Bao gồm các hoạt động sau:
- Giáo viên phải cho học sinh đọc kĩ đề toán.
- Dựa vào các dữ liệu bài toán và các thuật ngữ từ đó xác định được bài toán đó thuộc dạng toán nào.
- Tóm tắt đề toán.
- Tìm cách giải.
- Giải đề toán.
- Thử lại.
Học sinh phải biết vận dụng những kiến thức đã học về cộng, trừ, nhân, chia một cách linh hoạt, sáng tạo vào từng loại bài cụ thể. Khi giảng dạy gặp những dạng toán có lời văn bằng hai phép tính tùy thuộc vào từng lô gô giáo viên có thể hướng dẫn các em làm bài. Hoặc tùy thuộc vào từng bài giáo viên có thể linh động chuyển lô gô để các em nắm bài tốt hơn như giáo viên có thể cho học sinh:
+ Hoạt động cá nhân.
+ Hoặc hoạt động cặp đôi.
+ Hoặc thảo luận nhóm.
+ Hoặc tổ chức trò chơi.
Trong quá trình dạy giải bài toán có lời văn bằng hai phép tính khi hướng dẫn học sinh thực hiện tôi thường nêu câu hỏi dẫn dắt học sinh từ dễ đến khó. Tôi hướng cho học sinh tự tìm tòi suy nghĩ, tự chiếm lĩnh kiến thức mới. Vì quá trình tìm tòi, khám phá các em sẽ rèn cho các em tính chủ động, sáng tạo và các em sẽ hiểu sâu hơn, nhớ kĩ hơn. Từ đó các em có hứng thú trong học tập.
Thông thường khi giải các bài toán có lời văn tôi đã hướng dẫn các em cụ thể từng bước sau:
* Bước 1: ĐỌC KĨ ĐỀ TOÁN:
Ở bước đầu tiên này tôi hướng dẫn các em phải xác định cho đúng những dữ liệu đã cho, những dữ liệu cần tìm và những mối quan hệ chính trong đề toán. Ở bước này các em phải biết suy luận, tìm tòi những gì đã có liên quan đến từng dữ kiện của bài toán. Từ đó các em sẽ đưa ra được những cái cần tìm để giải những bài toán có lời văn bằng hai phép tính.
* Bước 2: TÓM TẮT ĐỀ TOÁN
Thông thường thì sau khi đã đọc kĩ đề toán để xác định những cái đã cho, cái phải tìm và các mối quan hệ chính trong bài toán thì giáo viên cần hướng dẫn các em biểu thị lại bài toán một cách trực quan và ngắn gọn những điều đã biết, chưa biết trong bài toán để dựa vào đó mà suy nghĩ cho thuận tiện.
Trước khi tôi cho các em tóm tắt đề toán tôi thường nhắc nhở các em đọc kĩ đề toán tập trung suy nghĩ tìm những dữ kiên đã cho của đề toán, tìm cách nêu rõ bài toán bằng lời, hình vẽ, hoặc sơ đồ đoạn thẳng. Trong trường hợp học sinh khó hiểu học sinh không vẽ được sơ đồ đoạn thẳng thì tôi thường hướng dẫn các em dùng ngôn ngữ, kí hiệu ngắn gọn để tóm tắt bài toán đơn giản, dễ hiểu hơn.
Đối với học sinh lớp 3 thì phần tóm tắt không nhất thiết phải trình bày vào vở nhưng tôi thấy rất cần thiết đối với các em nên tôi thường cho học sinh tóm tắt xong tôi yêu cầu các em nhìn vào đề toán rồi đọc lại một lần nữa. Từ đó các em sẽ xác định được dạng toán cần tìm.
*Bước 3: XÁC ĐỊNH DẠNG TOÁN VÀ GIẢI TOÁN
Trong toán giải thì việc nắm vững cách giải những dạng toán điển hình là vô cùng quan trọng. Nhưng bước quan trọng không kém là phải nhận dạng được các loại toán. Giáo viên có thể giảng cho học sinh hiểu các thuật ngữ trong bài toán như:
* Cho biết một dữ kiện cụ thể nào đó sau đó yêu cầu phải tìm một dữ kiện khác thường đi kèm các từ: Cho đi, đã ăn, ít hơn ... thì đó là dạng bài toán về ít hơn nên phải làm phép tính trừ. Nếu gặp các thuật ngữ như: thêm, cho thêm, nhiều hơn ...thì là dạng toán này nên phải làm phép tính cộng….
* Nếu dạng toán cho biết cụ thể dữ kiện thứ nhất, sau đó yêu cầu tìm dữ kiện thứ hai là “nhiều hơn” thì đó là dạng phép tính cộng. Sau đó yêu cầu tìm “tất cả” hay “cả hai” là phép tính cộng. (Dạng tìm hai phép tính cộng.)
* Nếu dạng toán cho biết dữ kiện thứ nhất là “một” yêu cầu tìm dữ kiện thứ hai “gấp số lần” như thể là dạngphép tính nhân. Sau đó yêu cầu tìm : ”tất cả” hoặc “cả hai” là phép tính cộng. (dạng tìm một phép tính nhân và một phép tính cộng)
* Nếu dạng toán cho biết cụ thể dữ kiện thứ nhất là số nhiều, yêu cầu tìm dữ kiện thứ hai “một” hoặc “ một phần mấy” là dạng toán có một phép tính chia. Sau đó yêu cầu tìm ”còn lại” là phép tính trừ. (dạng tìm một phép tính chia và một phép tính trừ)
* Nếu dạng toán cho biết cụ thể dữ kiện thứ nhất, yêu cầu tìm dữ kiện thứ hai bằng “một phần mấy” là dạng toán có một phép tính chia. Sau đó yêu cầu tìm : ”tất cả” hoặc “cả hai” là phép tính cộng. (dạng tìm một phép tính chia và một phép tính cộng)
* Dạng toán giải bằng hai phép tính liên quan đến rút về đơn vị (dạng tìm một phép tính chia và một phép tính nhân)
Hoặc bằng mẫu vật hay tranh vẽ như: hình quả cam, hình vuông, hình tròn, …. để hướng dẫn học sinh nắm bắt bài toán một cách dễ dàng.
* Bước 4: Thử lại
Để rèn luyện cho các em tính cẩn thận, chính xác. Tôi hướng dẫn các em kiểm tra kết quả bằng cách dựa vào dữ kiện bài toán đã cho và những dữ kiện cần tìm. Sau đó gợi ý các em tập diễn đạt lại đề toán theo cách khác để từ đó thấy rằng có nhiều đề toán nghe khác nhau nhưng khi đọc kĩ và phân tích kĩ dữ kiện thì có thể giống nhau. Khi các em đã tìm ra kết quả rồi các em thử lại một lần nữa thì các em sẽ nắm chắc nội dung bài, biết được mình làm bài đã đúng chưa. Từ đó các em có một thói quen làm bài cẩn thận hơn, chính xác hơn giúp các em tự tin vào cách làm của mình. Sau đó tôi đưa ra các ví dụ, yêu cầu học sinh nhận dạng và giải toán.
* Dạng bài toán giải bằng hai phép (dạng tìm hai phép tính cộng.)
Bài toán:
Một cửa hàng ngày thứ bảy bán được 9 quạt máy, ngày chủ nhật bán được nhiều hơn ngày thứ bảy 3 quạt máy. Hỏi cả hai ngày cửa hàng đó bán được bao nhiêu quạt máy? (Sách hướng dẫn học Toán lớp 3. Tập 1. Trang 60)
Bước 1: Đọc kĩ đề toán
Với bước này tôi thường cho học sinh đọc kĩ đề toán ít nhất 2 đến 3 lần.
Bước 2: Tóm tắt đề toán
Sau khi yêu cầu học sinh đọc kĩ đề. Học sinh nắm được các dữ kiện bài toán giáo viên có thể hướng dẫn cho học sinh từng bước như sau:
* Giáo viên yêu cầu các em đọc kĩ ý đầu tiên: "Một cửa hàng ngày thứ bảy bán được 9 quạt máy," rồi yêu cầu tóm tắt ý này làm sao cho cô động nhưng khi đọc lên vẫn hiểu được ý chính của nó. Học sinh có thể viết:
Ngày thứ bảy: 9 quạt máy,
- Sau đó yêu cầu học sinh đọc tiếp: "ngày chủ nhật bán được nhiều hơn ngày thứ bảy 3 quạt máy. ”. GV yêu cầu ghi ngắn gọn:
Ngày chủ nhật nhiều hơn ngày thứ bảy: 3 quạt máy.
- Tiếp tục yêu cầu học sinh đọc tiếp: "Hỏi cả hai ngày cửa hàng đó bán được bao nhiêu quạt máy? ?”. Giáo viên yêu cầu học sinh ghi ngắn gọn như:
Cả hai ngày: … quạt máy?
- Sau khi học sinh thoải mái nói lên ý kiến của mình giáo viên mới chọn ý hay, đúng nhất rồi ghi lên bảng như sau:
Tóm tắt:
Ngày thứ bảy: 9 quạt máy,
Ngày chủ nhật nhiều hơn : 3 quạt máy.
Cả hai ngày: … quạt máy?
Hoặc: Giáo viên có thể hướng dẫn học sinh tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng:
Phương pháp này thay cho các số (số đã cho, số phải tìm trong bài toán) để minh họa các quan hệ đó. Ta phải chọn độ dài các đoạn thẳng và cần sắp xếp các đoan thẳng đó một cách hợp lý, tạo một hình ảnh cụ thể giúp chúng ta suy nghĩ, tìm tòi cách giải bài toán một cách dễ dàng.
Tóm tắt:
Bước 3: Xác định dạng toán và giải toán
- Giáo viên yêu cầu học sinh nhận dạng bài toán.
- Bài toán này giải bằng mấy phép tính. Là những phép tính gì.
- Giáo viên hướng dẫn học sinh theo từng ý sau:
+ Bài toán cho biết gì? (Ngày thứ bảy bán được 9 quạt máy. Ngày chủ nhật bán được nhiều hơn ngày thứ bảy 3 quạt máy )
+ Bài toán yêu cầu tìm gì? (Cả hai ngày bán được bao nhiêu quạt máy? )
+ Muốn tìm được cả hai ngày ta phải biết gì? ( Phải biết ngày thứ bảy và ngày chủ nhật.)
+ Ngày thứ bảy đã cho biết chưa? (biết rồi). Biết bao nhiêu quạt máy? (9 Quạt máy)
+ Ngày chủ nhật bán được bao nhiêu quạt máy đã biết chưa? (Chưa biết)
+ Vậy đây là dạng toán nào? (bài toán về nhiều hơn, giải bằng hai phép tính cộng)
- Thông qua việc suy nghĩ và trả lời câu hỏi học sinh bước đầu hiểu được : Muốn tính số nhiều hơn lấy số đã cho cộng với số chỉ phần hơn.
+ Muốn biết ngày chủ nhật có bao nhiêu quạt máy ta làm tính gì? (làm tính cộng).
+ Lấy bao nhiêu cộng với bao nhiêu? (9 + 3)
- Giáo viên có thể hướng dẫn học sinh cách tìm lời giải: Các em đang tìm số quạt của ngày nào? (ngày chủ nhật). Vậy các em viết lời giải dựa vào ngày cần tìm đó để viết lời giải. Giáo viên cho học sinh nêu lời giải theo ý các em rồi chốt ý kiến đúng:
- Lời giải: Ngày chủ nhật bán được số quạt máy là:
Hoặc: Số quạt máy bán được trong ngày chủ nhật là:
+ Yêu cầu học sinh nêu phép tính: 9 +3 = 12 (quạt máy)
- Rồi giáo viên yêu cầu học sinh nêu lời giải thứ hai.
- Giáo viên có thể hướng dẫn học sinh cách tìm lời giải. Đối với học sinh tiếp thu bài chậm giáo viên có thể hướng dẫn như sau: Dựa vào câu hỏi cuối cùng các em bỏ chữ “Hỏi” đầu tiên rồi bỏ tiếp chữ “bao nhiêu” thay vào đó là chữ “số” thêm vào cuối câu đó chữ “là” là ta được lời giải hoàn thiện.
- Học sinh có thể nói nhiều cách khác nhau, sau đó giáo viên chốt ý đúng ghi bảng.
- Lời giải: Cả hai ngày bán được số quạt máy là:
Hoặc: Số quạt máy bán được trong hai ngày là:
- Tiếp tục yêu cầu học sinh nêu phép tính: 9 + 12 = 21 (quạt máy)
- Tiếp tục cho học sinh nêu đáp số: 19 quạt máy
Sau khi hướng dẫn học sinh làm xong, giáo viên ghi bảng và hướng dẫn học sinh cách trình bày. Khi trình bày bài giải tôi hướng dẫn kĩ cách trình bày. Trước hết tôi hướng dẫn các em viết bài giải vào giữa trang vở. Sau đó các em xuống dòng lùi vào 3 ô ly để viết lời giải, sau chữ là các em viết dấu hai chấm “:”. Hoặc tuỳ theo lời giải ngắn hay dài các em viết vào giữa cho đẹp. Xong lời giải các em xuống dòng viết phép tính lùi vào 1 ô ly so với lời giải. Tương tự với phép tính thứ hai. Xong hai phép tính các em xuống dòng ghi đáp số lùi vào 1 ô ly so với phép tính thứ hai. Như vậy các em đã hoàn thành bài giải đúng và đẹp.
Bài giải:
Ngày chủ nhật bán được số quạt máy là:
9 +3 = 12 (quạt máy)
Cả hai ngày bán được số quạt máy là:
9 + 12 = 21 (quạt máy)
Đáp số: 21 quạt máy
- Cứ như thế tôi hướng dẫn học sinh thật kĩ càng từng bài một số lần như vậy các em sẽ ghi nhớ kĩ và tự xác định được dạng toán cần làm.
Bước 4: Thử lại
Sau khi học sinh làm xong tôi yêu cầu học sinh kiểm tra lại kết quả bằng cách tôi hướng dẫn học sinh từng bước sau:
+ Kết quả các em tìm được ở ngày chủ nhật bao nhiêu quạt máy? (12 quạt máy)
+ Vậy bài toán cho biết Ngày thứ bảy bán được bao nhiêu quạt máy? (9 quạt máy)
+ Và cho biết chủ nhật nhiều hơn bao nhiêu quạt máy? (3 quạt máy)
+ Vậy chủ nhật bán được 12 quạt máy, ngày thứ bảy bán được 9 quạt máy. Chủ nhật nhiều hơn thứ bảy 3 quạt máy đã đúng với yêu cầu đề ra chưa? (Đúng)
+ Ngày thứ bảy bán được 9 quạt máy, ngày chủ nhật bán được 12 quạt máy. cả hai ngày cửa hàng đó bán được 21 quạt máy đúng chưa? (đúng)
+ Vậy lúc này ta khẳng định được bài toán đã tìm đúng kết quả.
Ví dụ:
Một cửa hàng bán vải ngày thứ nhất bán được 15m vải, ngày thứ hai bán được nhiều hơn ngày thứ nhất 9m vải. Hỏi cả hai ngày cửa hàng đó đó bán được bao nhiêu mét vải?
Bước 1: Đọc kĩ đề toán
Với bước này tôi thường cho học sinh đọc kĩ đề toán ít nhất 2 đến 3 lần.
Bước 2: Tóm tắt đề toán
Sau khi yêu cầu học sinh đọc kĩ đề. Học sinh nắm được các dữ kiện bài toán giáo viên có thể hướng dẫn cho học sinh từng bước.
- GV yêu cầu học sinh thảo luận cặp đôi.
- Gọi đại diện cặp nêu miệng.
- Cả lớp nhận xét tuyên dương.
Tóm tắt:
Ngày thứ nhất : 15m.
Ngày thứ hai bán nhiều hơn : 9m.
Cả hai ngày: … m?
Hoặc giáo viên có thể hướng dẫn học sinh tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng:
Tóm tắt:
Bước 3: Xác định dạng toán và giải toán
- Giáo viên yêu cầu học sinh nhận dạng bài toán này:
+ Bài toán cho biết gì? (Ngày thứ nhất bán được 15m vải, ngày thứ hai bán được nhiều hơn ngày thứ nhất 9m vải )
+ Bài toán yêu cầu tìm gì? (Cả hai ngày bán được bao nhiêu mét vải? )
- Giáo viên có thể hướng dẫn học sinh cách tìm lời giải theo cặp đôi.
- Gọi đại diện cặp nêu miệng.
- Cả lớp nhận xét tuyên dương.
- Rồi giáo viên yêu cầu học sinh nêu lời giải đúng
- Học sinh có thể nói nhiều cách khác nhau, sau đó giáo viên chốt ý đúng ghi bảng.
Bài giải:
Ngày thứ hai bán được số mét vải là:
15 + 9 = 24 (m)
Cả hai ngày bán được số mét vải là:
15 + 24 = 39 (m)
Đáp số: 39 m
- Cứ như thế tôi hướng dẫn học sinh thật kĩ càng từng bài một số lần như vậy các em sẽ ghi nhớ kĩ và tự xác định được dạng toán mình làm.
Bước 4: Thử lại
Sau khi học sinh làm xong tôi yêu cầu học sinh kiểm tra lại kết quả bằng cách tôi hướng dẫn học sinh từng bước kiểm tra lại bài toán.
+ Ngày thứ hai bán được bao nhiêu mét vải?(24m)
+ Ngày thứ hai 24m so với ngày thứ nhất 15m thì nhiều hơn bao nhiêu mét? (9m)
+ Vậy đã đúng yêu cầu bài toán chưa? (đúng rồi)
+ Hai ngày bao nhiêu mét? (39m).
+ Ngày thứ nhất bán được 15m. ngày thứ hai bán được 24m. Vậy đã đúng với yêu cầu bài toán chưa? (đúng rồi)
- Sau đó giáo viên tổng hợp nhận xét - tuyên dương.
** Dạng bài toán giải bằng hai phép (dạng một phép tính nhân và một phép tính cộng.)
Ví dụ:
Một cửa hàng buối sáng bán được 7 kg gạo, buổi chiều bán được số gạo gấp 3 lần buổi sáng. Hỏi cả hai buổi cửa hàng đó bán được bao nhiêu ki-lô-gam gạo?
Bước 1: Đọc kĩ đề toán
Giáo viên yêu cầu học sinh đọc kĩ đề từ 2 đến 3 lần.
Bước 2: Tóm tắt đề toán
Dựa vào cách hướng dẫn bài toán giáo viên hướng dẫn cho học sinh tóm tắt một cách dễ dàng. Học sinh có thể tóm tắt bằng lời:
Tóm tắt:
Buổi sáng: 7 kg
Buổi chiều: gấp 3 lần buổi sáng.
Cả hai buổi : … kg ?
Hoặc: Giáo viên có thể hướng dẫn học sinh tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng:
Tóm tắt:
Bước 3: Xác định dạng toán và giải toán
- Giáo viên cho học sinh đọc kĩ đề toán, tóm tắt đề toán rồi xác định dạng toán để giải bài toán một cánh chính xác nhất.
+ Bài toán cho biết gì? (Một cửa hàng buối sáng bán được 7kg gạo, buổi chiều bán được số gạo gấp 3 lần buổi sáng.)
+ Bài toán yêu cầu tìm gì? (cả hai buổi cửa hàng đó bán được bao nhiêu ki-lô-gam gạo?)
- Thông qua việc suy nghĩ và trả lời câu hỏi học sinh bước đầu hiểu được :
+ Muốn tìm được cả hai buổi bán được được bao nhiêu ki-lô-gam gạo ta phải biết gì? (Số gạo bán được của buổi sáng và số gạo bán được của buổi chiều)
+ Buổi sáng cho biết bán được bao nhiêu ki-lô-gam gạo chưa? (Biết rồi 7kg}
+ Buổi chiều cho biết bán được bao nhiêu ki-lô-gam gạo chưa? (Chưa biết). Muốn tìm buổi chiều bán được bao nhiêu ki-lô-gam gạo ta làm phép tính gì? (Tính nhân)
+ Giáo viên hướng dẫn học sinh nêu lời giải:
Buổi chiều bán được số ki-lô-gam gạo là:
Hoặc: Số ki-lô-gam gạo bán trong buổi chiều là:
+ Muốn tính buổi chiều bán được số ki-lô-gam gạo ta làm phép tính gì? (7 3 =21(kg))
+ Tìm cả buổi bán được số ki-lô-gam gạo ta làm phép tính gì? (7 + 21 = 28 (kg) )
- Sau đó giáo viên tổng hợp bài giải.
Bài giải:
Buổi chiều bán được số ki-lô-gam gạo là:
7 3 =21(kg)
Cả hai buổi bán được số ki-lô-gam gạo là :
7 + 21 = 28 (kg)
Đáp số: 28kg
Bước 4. Thử lại
- Tương tự như bài toán tôi cho học sinh tự tìm cách thử lại bài toán.
- Sau khi hướng dẫn học sinh hiểu bài xong tôi tiếp tục cho học sinh một bài toán tương tự thì các em tóm tắt rất nhanh và giải đúng với yêu cầu bài toán.
*** Dạng bài toán giải bằng hai phép tính (dạng tìm một phép tính chia và một phép tính trừ.)
Ví dụ:
Nhà bác Lan nuôi được 145 con gà, trong đó 13 là số gà mái. Hỏi nhà bác Lan nuôi bao nhiêu con gà trống?
Bước 1: Đọc kĩ đề toán
Giáo viên yêu cầu học sinh đọc kĩ đề từ 2 đến 3 lần.
Bước 2: Tóm tắt đề toán
Tóm tắt
Bác Lan nuôi: 145 con gà.
Gà mái: 13 số con gà.
Gà trống: …. con gà?
Hoặc: Tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng:
Tóm tắt:
|
? gà trống
Bước 3: Xác định dạng toán và giải toán
Giáo viên cho học sinh đọc kĩ lại đề toán hoặc tóm tắt đề toán rồi xác định dạng toán để giải bài toán một cách đúng nhất.
+ Bài toán cho biết gì?
+ Bài toán yêu cầu tìm gì?
Bài giải:
Số gà mái là :
145:3 = 45 (con)
Số gà trống là :
145 - 45 = 100 (con)
Đáp số:100 con.
Bước 4: Thử lại
- Bài toán tìm được bao nhiêu con gà trống? (100 con).
- Bài toán tìm được bao nhiêu con gà mái? (45 con).
- Vậy tổng cộng là bao nhiêu con gà? (145 con) đã đúng với yêu cầu đề bài cho chưa? (đúng rồi).
- Sau đó giáo viên nhận xét - tuyên dương.
**** Dạng bài toán giải bằng hai phép (dạng một phép tính chia và một phép tính cộng.)
Ví dụ:
Ngày đầu mẹ Lan mua được 128kg cà phê. Ngày sau mua bằng 14 số ki-lô-gam cà phê so với ngày đầu. Hỏi cả hai ngày mẹ Lan mua được bao nhiêu ki-lô-gam cà phê?
Bước 1: Đọc kĩ đề toán
Giáo viên yêu cầu học sinh đọc kĩ đề từ 2 đến 3 lần.
Bước 2: Tóm tắt đề toán
Tóm tắt
Ngày đầu: 128kg
Ngày sau: 14 số ki-lô-gam cà phê so với ngày đầu
Cả hai ngày: ….kg?
Hoặc: Tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng:
Tóm tắt:
Bước 3: Xác định dạng toán và giải toán
- Giáo viên cho học sinh đọc kĩ đề toán, tóm tắt đề toán rồi xác định dạng toán để giải bài toán một cánh đúng nhất.
+ Bài toán cho biết gì? (Ngày đầu mẹ Lan mua được 128kg cà phê. Ngày sau mua bằng 14 số cà phê so với ngày đầu.)
+ Bài toán hỏi gì? (Hỏi cả hai ngày mẹ Lan mua được bao nhiêu kg cà phê?)
Bài giải:
Ngày sau mẹ Lan mua được số ki-lô-gam cà phê là:
128 : 4 = 32 (kg)
Cả hai ngày mẹ Lan mua được số ki-lô-gam cà phê là:
128 + 32 = 160 (kg)
Đáp số:160kg.
Bước 4: Thử lại
+ Ngày đầu mẹ Lan mua được bao nhiêu ki-lô-gam cà phê? (128kg)
+ Ngày sau mua được bằng 14 số ki-lô-gam cà phê so với ngày đầu. Vậy 14
của 128 kg là bao nhiêu kg ? (32 kg)
+ Ngày đầu mẹ Lan mua được 128kg, ngày sau mua được 32 kg. Tất cả mua được 160 kg. Vậy đã đúng với yêu cầu bài toán chưa? (đúng rồi).
***** Dạng bài toán giải bằng hai phép dạng liên quan đến rút về đơn vị (dạng tìm một phép tính chia và một phép tính nhân.)
Ví dụ:
Có 60 kg gạo đựng đều trong 3 bao. Hỏi 5 bao như thế đựng được bao nhiêu ki-lô-gam gạo?
Bước 1: Đọc kĩ đề toán
Giáo viên yêu cầu học sinh đọc kĩ đề từ 2 đến 3 lần.
Bước 2: Tóm tắt đề toán
Tóm tắt
60kg: 3 bao
5 bao: … kg?
Bước 3: Xác định dạng toán và giải toán
Giáo viên cho học sinh đọc kĩ lại đề toán hoặc tóm tắt đề toán rồi xác định dạng toán để giải bài toán một cánh đúng nhất.
+ Bài toán cho biết gì? (Có 60 kg gạo đựng đều trong 3 bao.)
+ Bài toán hỏi gì? (Hỏi 5 bao như thế đựng được bao nhiêu ki-lô-gam gạo?)
Bài giải:
Một bao đựng được số ki-lô-gam gạo là:
60:3 = 20 (kg)
5 bao đựng được số ki-lô-gam gạo là:
5 X 20 = 100 (kg)
Đáp số:100kg.
Bước 4: Thử lại
+ Bài toán tìm 5 bao đựng được bao nhiêu ki-lô-gam? (100kg)
+ 5 bao so với 3 bao thì nhiều hơn mấy bao? (2 bao)
+ 100kg so với 60kg thì hơn nhau bao nhiêu ki-lô-gam? (40kg).
+ 1 bao đựng được bao nhiêu ki-lô-gam? (20 kg)
+ 2 bao đựng được bao nhiêu ki-lô-gam? (40kg)
+ Vậy 5 bao hơn 3 bao 40 kg đã hợp lí chưa (hợp lý)
+ Vậy 3 bao đựng 60kg. 5 bao đựng 100kg đã hợp lý chưa? (hợp lý)
- Sau đó giáo viên nhận xét - tuyên dương.
Hoàn thành tốt |
Hoàn thành |
Chưa hoàn thành |
|||
Số lượng |
% |
Số lượng |
% |
Số lượng |
% |
11/28 |
39,3 |
17/28 |
60,7 |
0 |
0 |
* Cứ như thế khi dạy đến dạng toán giải toán có lời văn bằng hai phép tính tôi luôn hướng dẫn học sinh kĩ càng từng bước. Bởi vậy cuối năm học tôi thu được kết quả như sau:
Trong quá trình dạy học thì các giải pháp, biện pháp luôn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong mỗi tiết dạy có thành công hay không phụ thuộc vào người giáo viên đó là lòng yêu nghề, nhiệt huyết, quan tâm đến chất lượng trong từng tiết dạy. Luôn phải tự học hỏi, tìm hiểu, khám phá để tìm ra những hình thức tổ chức dạy học hay nhất gây hứng thú cho học sinh. Giúp các em khả năng tự tìm tòi, khám phá nội dung mới, say mê học tập.
- Giáo viên cùng với phụ huynh học sinh phải trao đổi, lập ra những kế hoạch biện pháp, giải pháp cụ thể để giúp các em nâng cao chất lượng học tập. Thường xuyên trao đổi để có biện pháp uốn nắn, giúp đỡ kịp thời những em tiếp thu bài còn chậm. Luôn quan tâm, động viên, chia sẻ tạo mối quan hệ gần gũi để các em có động lực phấn đấu vươn lên trong học tập.
- Trong lớp giáo viên tổ chức tuần học tốt để các em tự kèm cặp, giúp đỡ lẫn nhau.
- Giáo viên ngay từ đầu phải quan tâm đến từng đối tượng học sinh để kịp thời động viên, khuyến khích các em trong học tập.
Qua quá trình giảng dạy, nhờ áp dụng những biệp pháp, giải pháp như đã nêu trên. Tôi thấy chất lượng đã được nâng lên rõ rệt. Các em đã nắm chắc được các dạng toán. Từ đó các em biết áp dụng vào giải toán có lời văn một cách đơn giản, dễ dàng. Các em đã hiểu bài và hứng thú trong học toán. Trong quá trình dạy học tôi đã áp dụng được những phương pháp, hình thức tổ chức giảng dạy trên nên tôi đã thu được kết quả cao.
SAU KHI ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP CHẤT LƯỢNG NĂM HỌC NHƯ SAU:
Sĩ số: 28
TRƯỚC KHI ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP CHẤT LƯỢNG KSĐN NHƯSAU:
Hoàn thành tốt |
Hoàn thành |
Chưa hoàn thành |
|||
Số lượng |
% |
Số lượng |
% |
Số lượng |
% |
6/28 |
21,4 |
13/28 |
46,4 |
9/28 |
32,2 |
Cuối học kỳ I |
Cuối năm học |
||||||||||
Hoàn thành tốt |
Hoàn thành |
Chưa hoàn thành |
Hoàn thành tốt |
Hoàn thành |
Chưa hoàn thành |
||||||
SL |
% |
SL |
% |
SL |
% |
SL |
% |
SL |
% |
SL |
% |
9/28 |
32,1 |
16/28 |
57,2 |
3/28 |
10,7 |
11/28 |
39,3 |
17/28 |
60,7 |
0 |
0 |
Điều này chứng tỏ phương pháp tôi đã lựa chọn đạt được hiệu quả. Không những chất lượng của học sinh được nâng lên, học sinh chủ động lĩnh hội kiến thức và có được chiếc “chìa khóa” tháo gỡ những khó khăn thường mắc phải khi giải toán có lời văn.
Qua quá trình giảng dạy các dạng toán có lời văn giải bằng hai phép tính ở lớp 3năm học 2019 – 2020 tôi thấy các em học đạt kết khả quan và tôi tiếp tục áp dụng vào giảng dạy lớp mình phụ trách năm học 2020 – 2021 chất lượng nâng cao rõ rệt. Các em đã hiểu bài và thích thú tìm hiểu chúng. Học sinh có thể tự tin và biết biện luận và lý giải cho bài làm của mình. Với phương pháp này đòi hỏi học sinh phải biết suy luận đúng đắn, chặt chẽ và logic. Vì vậy, học sinh cần phải luyện tập óc ghi nhớ, cách lập luận, cách xem xét khả năng có thể xảy ra của một sự kiện và trên cơ sở đó vận dụng những kiến thức cơ bản đã học vào các tình huống trong cuộc sống hằng ngày. Chính vì vậy tôi nhận thấy rõ tầm quan trọng của việc giải toán có lời văn bằng hai phép tính tôi đã bước đầu tìm ra giải pháp giúp các em giải tốt khi gặp các dạng toán này. Trong quá trình nghiên cứu và tích lũy, đúc rút kinh nghiệm với khả năng của bản thân có hạn, còn nhiều hạn chế, tôi rất mong bạn đọc và hội đồng khoa học cấp cơ sở góp ý để sáng kiến kinh nghiệm của tôi được áp dụng rộng rãi và có hiệu quả.
- Nhà trường tạo điều kiện cho giáo viên được học tập thường xuyên, tích cực trau dồi chuyên môn nghiệp vụ, tích lũy những kinh nghiệm hay trong giảng dạy để nâng cao tay nghề.
- Nhà trường có tài liệu cho giáo viên tham khảo. Đồ dùng dạy học phải đầy đủ, màu sắc phong phú để gây hứng thú cho học sinh.
Một số giải pháp dạy toán phép chia có dư ở tiểu học
02/04/2025 14:46
Một số giải pháp dạy toán phép chia có dư ở tiểu học
Lồng ghép một số trò chơi nhỏ trong bài dạy thể dục nhằm tạo hứng thú cho học sinh
01/04/2025 16:44
Lồng ghép một số trò chơi nhỏ trong bài dạy thể dục nhằm tạo hứng thú cho học sinh
Một số biện pháp xây dựng lớp học hạnh phúc tại lớp 5A4
31/03/2025 17:06
Một số biện pháp xây dựng lớp học hạnh phúc tại lớp 5A4
Một số giải pháp vận phương pháp nhóm giúp học sinh dân tộc thiểu số phát huy kĩ năng làm việc nhóm
30/03/2025 07:53
Một số giải pháp vận phương pháp nhóm giúp học sinh dân tộc thiểu số phát huy kĩ năng làm việc nhóm.
Một số giải pháp phát triển kỹ năng viết bài văn miêu tả cho học sinh lớp 5
30/03/2025 11:02
Một số giải pháp phát triển kỹ năng viết bài văn miêu tả cho học sinh lớp 5
Một số biện pháp phát huy tính tự chủ, tự giác, sáng tạo ở học sinh lớp 5
30/03/2025 20:22
Một số biện pháp phát huy tính tự chủ, tự giác, sáng tạo ở học sinh lớp 5
29/03/2025 14:32
Một số biện pháp dạy môn Lịch sử lớp 5 theo hướng phát triển năng lực giúp học sinh yêu thích môn học Lịch sử
Tổ chức một số trò chơi toán học nhằm gây hứng thú học tập cho học sinh lớp 5
28/03/2025 07:26
Tổ chức một số trò chơi toán học nhằm gây hứng thú học tập cho học sinh lớp 5