Một số biện pháp dạy môn Lịch sử lớp 5 theo hướng phát triển năng lực giúp học sinh yêu thích môn học Lịch sử
Ngày đăng: 29/03/2025 14:32
Ngày đăng: 29/03/2025 14:32
I. PHẦN MỞ ĐẦU
I.1. Lý do chọn đề tài:
Tiểu học là cấp học nền tảng đặt cơ sở ban đầu cho việc hình thành và phát triển toàn diện nhân cách của con người, đặt nền tảng vững chắc cho giáo dục phổ thông và cho toàn bộ hệ thống giáo dục quốc dân.
Việc dạy học lịch sử nói riêng cũng như dạy học các môn học khác vấn đề là phải giúp người học lĩnh hội được kiến thức, giáo dục đạo đức và hình thành nhân cách cho học sinh. Trong những năm qua việc thực hiện chương trình, sách giáo khoa mới cũng như việc đổi mới phương pháp dạy học đã khẳng định rõ hơn vai trò của người học. Trong việc đổi mới, cải tiến phương pháp dạy và học, việc phát huy tính tích cực của học sinh có ý nghĩa quan trọng. Bởi vì xét cho cùng công việc giáo dục phải được tiến hành trên cơ sở tự nhận thức, tự hành động. Giáo dục phải được thực hiện thông qua hành động và bằng hành động của bản thân (tư duy và thực tiễn). Sinh thời Bác Hồ đã nói:
“Dân ta phải biết sử ta,
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”
Vì đã là người Việt Nam thì dù ở đâu cũng phải biết lịch sử của nước nhà và đó cũng chính là đạo lí: “Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc ta. Nhưng thực tế việc dạy và học môn Lịch sử chưa đạt hiệu quả như mong muốn bởi còn gặp một số khó khăn. Từ đó trong những năm gần đây qua thực tế ở nhà trường tôi nhận thấy hầu như các em học sinh chưa nhận thức được tầm quan trọng của môn Lịch sử, các em còn coi nhẹ môn học này. Đặc biệt đây cũng là tiền đề vững chắc để các em học lên các cấp học trên. Vì thế trong quá trình công tác và tình hình thực tế, tôi nhận thấy ngay từ cấp tiểu học chúng ta phải gây hứng thú học môn Lịch sử mà đi đến chủ động, sáng tạo yêu thích học môn học này.
Lịch sử có vai trò quan trọng như vậy, nhưng thực tế hiện nay một số học sinh không có hứng thú khi học môn học này, dẫn đến chất lượng giờ lịch sử còn hạn chế. Với mong muốn góp phần nhỏ bé của mình vào việc phát triển nhân cách cho các em học sinh, đồng thời nâng cao năng lực sư phạm của bản thân, tôi mạnh dạn chọn môn Lịch sử để nghiên cứu. Đó cũng chính là lí do tôi chọn đề tài:
“Một số biện pháp dạy môn Lịch sử lớp 5 theo hướng phát triển năng lực giúp học sinh yêu thích môn học Lịch sử”.
Nhằm làm cho việc học tập của học sinh trở nên lý thú, gắn bó với thực tiễn. Để phát huy tính tích cực chủ động, sáng tạo, thay đổi thói quen học tập thụ động, ghi nhớ máy móc của học sinh.
I.2. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài.
Mục tiêu:
-Nghiên cứu, áp dụng tìm ra một số biện pháp nhằm gây hứng thú cũng như phát huy tính tích cực của học sinh đồng thời nâng cao chất lượng trong dạy học môn Lịch sử ở bậc Tiểu học.
-Lịch sử lớp 5 được dạy ở trường Tiểu học nhằm cung cấp cho học sinh một số kiến thức cơ bản, thiết thực về: Các sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử tiêu biểu ở các giai đoạn phát triển của lịch sử Việt Nam từ năm 1858 tới nay. Bước đầu hình thành và rèn luyện cho học sinh các kĩ năng: Quan sát sự vật, hiện tượng, thu thập, tìm kiếm tư liệu lịch sử từ các nguồn khác nhau. Nêu thắc mắc, đặt câu hỏi trong quá trình học tập và chọn thông tin để giải đáp. Phân tích, so sánh, đánh giá các sự vật, sự kiện, hiện tượng lịch sử. Vận dụng các kiến thức đã học vào thực tiễn đời sống. Góp phần bồi dưỡng và phát triển ở học sinh những thái độ và thói quen: Ham học hỏi, ham hiểu biết thế giới xung quanh. Yêu thiên nhiên, con người, đất nước. Có ý thức hành động và bảo vệ thiên nhiên và các di sản văn hoá.
Nhiệm vụ:
-Xây dựng cơ sở lí luận cho đề tài.
-Điều tra và khảo sát tình hình và chất lượng học tập của học sinh.
-Đề ra biện pháp có hiệu quả giúp học sinh học tốt môn Lịch sử.
I.3. Đối tượng nghiên cứu.
-Đề tài nghiên cứu trong phạm vi học sinh khối lớp 5 Trường Tiểu học ............. Năm học 2015-2016.
-Nghiên cứu các biện pháp giúp học sinh học tốt môn Lịch sử ở Tiểu học.
I.4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu.
-Đề tài xoay quanh việc nghiên cứu giảng dạy và học tập với việc tìm tòi và áp dụng thực nghiệm đưa ra một số biện pháp từ kinh nghiệm giảng dạy qua nhiều năm công tác để giúp học sinh Tiểu học nói chung cũng như học sinh Trường Tiểu học ............ nói riêng học tốt môn Lịch sử.
I.5. Phương pháp nghiên cứu.
-Phương pháp trò chuyện với giáo viên và học sinh
-Phương pháp thu thập và xử lí số liệu
-Phương pháp thực nghiệm
-Phương pháp điều tra, khảo sát.
II. PHẦN NỘI DUNG
II.1. Cơ sở lí luận.
-Học sinh Tiểu học hồn nhiên, ngây thơ, trong sáng, hiếu động thích tò mò, khám phá, làm việc độc lập theo hướng tích cực của mình. Nhưng khả năng nhớ lâu, xâu chuỗi, hệ thống kiến thức của các em còn mang tính hình thức. Theo thống kê hàng năm của bộ giáo dục và đào tạo thì chất lượng bài thi môn Lịch sử ở các cấp còn thấp. Các em thường nhầm lẫn kiến thức Lịch sử với những nội dung cơ bản nhất. Vậy câu hỏi đặt ra nguyên nhân là do đâu ? Có lẽ vấn đề này chúng ta cũng không nên đổ lỗi cho một cấp học nào nhưng thực tế điều đáng nói là những kiến thức cơ bản các em cũng không nắm được. Môn Lịch sử vốn có vị trí, ý nghĩa quan trọng đối với việc giáo dục thế hệ trẻ. Từ những hiểu biết về quá khứ, học sinh hiểu rõ về truyền thống dân tộc, tự hào với những truyền thống, với những thành tựu dựng nước và giữ nước của tổ tiên, xác định nhiệm vụ trong hiện tại, có thái độ đúng với sự phát triển của tương lai. Song làm thế nào để các em làm được điều đó là vấn đề cốt lõi mà bản thân mỗi giáo viên cần quan tâm.
-Xuất phát từ mục tiêu giáo dục đã được Đảng và nhà nước xác định, hoàn chỉnh, bổ sung qua các thời kì, chúng ta cần chú trọng đến quan điểm là đào tạo thế hệ trẻ thành người lao động làm chủ nước nhà. Là người có trình độ cơ bản, đáp ứng những yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội, những người thông minh, sáng tạo, có phẩm chất đạo đức, tư tưởng tốt … Con người phải được rèn luyện qua quá trình đào tạo và tự đào tạo. Hiện nay, trong quá trình dạy học trên lớp, hoạt động trí tuệ chủ yếu của học sinh là ghi nhớ và tái hiện. Ở nhà, học sinh tự học dưới dạng học bài và làm bài…nhưng về căn bản đã được hướng dẫn ở lớp, nên hoạt động trí tuệ của học sinh vẫn nặng về rèn luyện trí nhớ và khả năng tái hiện. Như vậy, rèn luyện năng lực tư duy, khả năng tưởng tượng, sáng tạo phát triển trí tuệ, trí thông minh của học sinh nói chung, được xem là nhiệm vụ chủ yếu, nhiệm vụ quan trọng nhất của quá trình dạy học hiện đại. Vì vậy, then chốt của việc đổi mới phương pháp dạy học là điều chỉnh mối quan hệ giữa tái hiện và sáng tạo, đến việc tăng cường các phương pháp sáng tạo nhằm đổi mới tính chất hoạt động nhận thức của học sinh trong quá trình dạy học. Đây cũng là vấn đề nhức nhối cho những người làm công tác giáo dục nói chung và những giáo viên trực tiếp giảng dạy nói riêng.
II.2. Thực trạng.
-Chương trình lịch sử lớp 5 tập trung cung cấp cho các em về một số sự kiện, hiện tượng lịch sử và một số nhân vật lịch sử theo từng mốc giai đoạn thời gian: 1858- 1945: Hơn 80 năm chống thực dân pháp xâm lược; 1945- 1954: Bảo vệ chính quyền non trẻ, trường kì kháng chiến chống thực dân pháp; 1954- 1975: Xây dựng chủ nghĩa xã hội miền Bắc, đấu tranh thống nhất đất nước; 1975- nay: Xây dựng chủ nghĩa xã hội trong cả nước.
-Tuổi trẻ bây giờ được sinh ra và lớn lên trong thời bình, dường như các em chưa quan tâm nhiều đến lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của cha ông ta. Các em chưa biết quan tâm nhiều đến việc tìm tòi, nghiên cứu nguồn sử liệu về lịch sử. Ở trường tiểu học các em chỉ dành nhiều thời gian, tâm sức cho môn Toán và môn Tiếng Việt. Vậy làm thế nào để nâng cao chất lượng của môn Lịch sử ? Đó là nỗi lo âu, trăn trở của mỗi chúng ta khi giảng dạy môn học này.
-Học sử không phải để nhồi nhét vào trí nhớ một cách vô cảm những sự kiện, con số, ngày tháng, mà học sử để sống và rung động với sự kiện lịch sử. Học sử để rút ra những bài học về nhân văn, về lòng yêu nước, theo phương châm học để hiểu và hành như câu nói của Bác: “ Dân ta phải biết sử ta, cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam.
-Thực tế hiện nay một số giáo viên vẫn còn coi nhẹ, chưa dành những quan tâm xứng đáng cho tiết dạy lịch sử, một số học sinh không có hứng thú khi học môn này dẫn đến chất lượng giờ học lịch sử còn hạn chế.
a.Thuận lợi - khó khăn.
Thuận lợi: Trường Tiểu học ............ đóng trên địa bàn trung tâm xã ............, đường sá đi lại tương đối thuận tiện, 100% học sinh là con em tại địa phương, là một xã tương đối lớn. Số lượng trẻ em tương đối đông là nguồn nhân lực dồi dào cho lực lượng lao động trong tương lai nhưng đồng thời cũng đặt ra những thử thách về giáo dục, chăm sóc và tạo điều kiện thuận lợi phát triển cho trẻ. Sự phát triển kinh tế, xã hội của cả nước nói chung, trên địa bàn xã nhà nói riêng trong những năm qua đã tạo tiền đề quan trọng thúc đẩy, nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, thu hút được sự tham gia tích cực của hầu hết cơ quan Đảng, chính quyền, các tổ chức đoàn thể xã hội. Các chủ trương, đường lối về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em của Đảng và nhà nước được cụ thể hóa. Điều kiện sức khỏe và thể chất trẻ em ngày càng được cải thiện và nâng cao. Số học sinh có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn từng bước được quan tâm. Bên cạnh đó nhà trường cũng đã chú trọng đầu tư trang thiết bị phục vụ cho công tác dạy học như: Tranh ảnh, máy chiếu, máy vi tính …Đội ngũ giáo viên nhiệt tình, tâm huyết với nghề nghiệp.
-Được sự quan tâm tạo điều kiện giúp đỡ của Ban Giám Hiệu nhà trường, của các đồng chí, đồng nghiệp và đặc biệt là sự nổ lực của bản thân trong quá trình nghiên cứu.
Khó khăn:
-Học sinh trường Tiểu học ............ chủ yếu là con em dân tộc thiểu số, tầm nhận thức còn hạn chế, gia đình học sinh chủ yếu làm nghề nông, đời sống nơi đây còn gặp nhiều khó khăn, số học sinh thuộc diện hộ nghèo chiếm khá đông, sự quan tâm của phụ huynh còn sơ sài, chưa thiết thực. Thiếu sân chơi bổ ích cho trẻ, trình độ dân trí còn thấp điều đó ảnh hưởng không nhỏ đến việc học tập của học sinh.
-Đồ dùng dạy học tuy được cải thiện song vẫn còn thiếu như băng hình đặc biệt là tư liệu Lịch sử còn hạn chế. Môi trường học Lịch sử còn nghèo nàn làm cản trở cho việc lôi cuốn học sinh trong việc yêu thích môn Lịch sử. Các em chưa biết quan tâm nhiều đến việc tìm tòi, nghiên cứu nguồn sử liệu về lịch sử. Trong học tập các em chủ yếu dành nhiều thời gian, tâm sức cho môn Toán và môn Tiếng Việt.
-Từ những nguyên nhân trên đã ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng giờ dạy, không gây hứng thú cho học sinh và đặc biệt là tư duy trong học tập của các em bị hạn chế.
b. Thành công - hạn chế:
+Thành công:
-Qua việc đổi mới phương pháp dạy học phù hợp với từng đối tượng, nội dung bài học. Học sinh hiểu bài nhanh hơn, nắm kiến thức lâu hơn, các em đã tích cực vân dụng được các kiến thức vào bài học, thực hành. Các em hứng thú và thích học môn Lịch sử hơn trong học tập.
-Các biện pháp, giải pháp mà tôi áp dụng cho đề tài đã qua thực nghiệm và khảo sát nên mang lại hiệu quả của giáo dục khá cao. Và được sự đồng tình, ủng hộ của cán bộ, giáo viên nhà trường về những đề xuất của đề tài.
+Hạn chế:
-Xuất phát từ quy luật nhận thức của con người phải đi từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn chỉnh đến hoàn chỉnh…
-Song bên cạnh đó do học sinh là con em nông thôn nên trong quá trình thực hiện ban đầu có phần hạn chế vì đồ dùng dạy học chưa phong phú. Đa số các em chưa yêu thích môn học này.
-Từ những vấn đề nêu trên tôi thấy về trình độ nhận thức của học sinh hiện nay chưa cao, các em tuy nhạy bén với cái mới nhưng các em chóng quên, nếu không thường xuyên được củng cố, luyện tập thì hiệu quả đạt không cao trong học tập. Thời gian không chỉ dành riêng cho môn Lịch sử, trong quá trình nghe giảng học sinh chưa biết chọn lọc, kết hợp với ghi chép chi tiết những điều cần nhớ, tốc độ viết còn chậm, khả năng tiếp thu và thâu tóm vấn đề còn hạn chế.
c. Mặt mạnh - mặt yếu:
+Mặt mạnh:
-Đa số giáo viên có tâm huyết với nghề, có hiểu biết sâu sắc về bộ môn và có tay nghề cao, vẫn có nhiều giờ dạy giỏi, phản ánh được tinh thần của xu thế mới. Mặc dù phần lớn giáo viên phải sống và giảng dạy trong điều kiện còn khó khăn, nhưng nét nổi bật là đều có tinh thần trách nhiệm cao, bám lớp, bám trường.
-Học sinh Tiểu học hiện nay có trí thông minh khá nhạy bén, sắc sảo, óc tưởng tượng khá phong phú đó là tiền đề tốt cho việc phát triển nâng cao tư duy trong học tập.
-Bản thân tôi là giáo viên có thời gian công tác giảng dạy đã lâu năm, nên kinh nghiệm giảng dạy khá phong phú, vì thế việc tìm ra biện pháp để phục vụ cho đề tài là tương đối thuận lợi. Các biện pháp mà tôi đưa ra đã được thực nghiệm tại trường Tiểu học ............ mang lại hiệu quả khá cao. Không những thế lại nhiệt tình trong công tác, có chí cầu tiến thích khám phá, tìm hiểu. Bên cạnh đó học sinh rất thích cái mới, cái lạ và thích khám phá tìm hiểu thế giới xung quanh. Chuyên môn tổ chức nhiều chuyên đề, phương pháp đặt ra nhằm nâng cao chất lượng dạy học. Ngoài ra nhà trường cũng như Liên đội thường tổ chức một số cuộc thi như: Nhà sử học nhỏ tuổi, em yêu Tổ quốc Việt Nam… Đã mang lại hiệu quả cao trong công tác dạy học Lịch sử, không những thế qua những hình ảnh trực quan như tên đường, tên trường, tên chi đội .. cũng gắn liền với nhân vật lịch sử, vì thế thông qua đó các em đã hiểu được phần nào về lịch sử nước nhà, những vấn đề đó cũng góp phần không nhỏ đến sự thành công của đề tài.
+Mặt yếu:
-Trong quá trình dạy học, một số giáo viên chưa đổi mới phương pháp dạy học, dạy học còn theo kiểu truyền thống, giáo viên thiên về giảng giải, truyền thụ, thậm chí nhồi nhét kiến thức, học sinh lắng nghe một cách thụ động, ghi nhớ máy móc. Chính vì thế nội dung chương trình, phương pháp giảng dạy, hình thức chuyển tải, truyền đạt…làm thế nào cho phù hợp với từng đối tượng học sinh, với tâm sinh lí lứa tuổi là điều quan trọng. Nhưng nhìn chung chưa mang lại hiệu quả cao do nhiều yếu tố khách quan và chủ quan. Cụ thể học sinh cũng như phụ huynh chưa quan tâm đến nhiều môn học này.
-Để gây hứng thú học tập và giúp học sinh có khả năng nhớ lâu, hệ thống kiến thức tốt giáo viên cần đầu tư và đưa công nghệ thông tin (bài giảng điện tử) vào trong dạy học thì hiệu quả đạt cao hơn.
d. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động đến đề tài:
-Học Lịch sử là quá trình nhận thức những điều đã diễn ra trong quá khứ của xã hội để hiểu về hiện tại và chuẩn bị cho tương lai. Khi nghiên cứu các hiện tượng tự nhiên người ta có thể trực tiếp quan sát chúng trong thiên nhiên hoặc trong phòng thí nghiệm nhưng đối với học sinh vùng nông thôn như trường tôi thì điều đó quá xa vời. Các em chủ yếu chỉ tái tạo Lịch sử qua lời kể của thầy cô giáo, qua tưởng tượng điều đó ảnh hưởng đến sự lĩnh hội kiến thức lịch sử bị hạn chế.
-Phương pháp dạy học ít đổi mới của giáo viên cũng ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình tiếp thu bài của học sinh. Học sinh chưa coi trọng môn lịch sử như Toán hay Tiếng Việt nên đầu tư cho môn học này còn ít.
-Thực tế chất lượng học sinh trong lớp chưa thực sự đồng đều một số em còn xem nhẹ môn học này. Hơn nữa thời gian học tập các môn học với lượng kiến thức nhiều nên việc học Lịch sử đối với các em chưa thực sự chú trọng.
e. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra.
-Thực trạng cho thấy, đầu năm học khi tôi nhận lớp, chỉ có khoảng hơn 60% học sinh hứng thú, thích học môn Lịch sử.
-Trước khi thực hiện đề tài này, trong lớp có: 18/29 HS yêu thích, hứng thú học môn Lịch sử. (chiếm 62%). 5/29 HS học vì yêu cầu của thầy cô,(chiếm 17%). 6/29 HS chưa hứng thú học môn lịch sử, (chiếm 21%).
-Như vậy qua tìm hiểu thực trạng chúng ta nhận thấy rằng có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng học sinh ngại học Lịch sử nhưng theo tôi phải thẳng thắn nhìn nhận rằng:
-Phương pháp dạy học của giáo viên chưa thật sự đổi mới. Trong hội giảng của trường hầu như giáo viên không tham gia hoặc đăng kí dạy môn Lịch sử.
-Trang thiết bị cũng như băng hình, tài liệu về sử học còn hạn chế. Giáo viên ít đầu tư làm đồ dùng cho môn học mà học sinh chủ yếu được học chay.
-Quan niệm về vị trí môn học của phụ huynh và học sinh còn sai lệch.
-Nhà trường chưa tổ chức nhiều các hội thi hay hoạt động ngoài giờ lên lớp có kiến thức sử học.
-Kiến thức về sử học của một số giáo viên còn hạn chế nên khi lên lớp không mở rộng cho học sinh thêm kiến thức có sẵn trong sách giáo khoa.
-Vậy để giúp học sinh học tốt môn Lịch sử đòi hỏi trước hết giáo viên cần có kiến thức Lịch sử chuyên sâu. Thiết kế bài giảng sinh động và mới mẽ trong từng tiết dạy, sử dụng giáo án điện tử vào tiết dạy, luôn sưu tầm, cập nhật tài liệu, kiến thức Lịch sử thường xuyên qua thông tin đại chúng, trong tiết dạy phải biết phối hợp các phương pháp dạy học có hiệu quả. Ngoài ra, tôi luôn yêu cầu học sinh phối hợp giữa lí thuyết và thực hành. Trong dạy học môn học này, tôi sử dụng kết hợp linh hoạt các phương pháp và các hình thức dạy học, trong đó chú trọng phát huy năng lực chủ động sáng tạo nơi các em, ví dụ: Ở bài 6 (lịch sử 5): “Quyết chí ra đi tìm đường cứu nước”, nội dung của bài học này khá gần gủi với các em, tôi giao nhiệm vụ cho các em sưu tầm tư liệu về tiểu sử của Bác, trao đổi trình bày trong nhóm và trước lớp. Đây chính là cách giúp học sinh chủ động tiếp cận kiến thức thông qua sự dẫn dắt của giáo viên. Khi tiến hành hoạt động dạy học, tôi còn dựa trên trình độ thực tế của lớp mà lựa chọn phương pháp, hình thức tổ chức dạy học phù hợp nhất. Trong mỗi bài dạy tôi luôn xây dựng một hệ thống câu hỏi đi từ dễ đến khó. Qua đó, giúp tôi lựa chọn phương pháp đàm thoại, vấn đáp hay thảo luận nhóm, trao đổi…theo hình thức cá nhân, để giải quyết vấn đề được đặt ra.
II.3. Giải pháp, biện pháp:
-Trước hết tôi luôn xác định muốn giúp các em yêu thích học môn Lịch sử thì giáo viên phải là người yêu thích sử, phải tự trang bị cho mình thật nhiều kiến thức về lịch sử. Bởi vậy tôi luôn nghiên cứu kĩ sách giáo khoa, nắm vững các kiến thức mục tiêu cơ bản cần truyền đạt, đảm bảo một hệ thống kiến thức liên tục, có sự liên hệ liền mạch: các thời kì, các sự kiện tiêu biểu, các nhân vật lịch sử tiêu biểu.
Ví dụ: Khi giới thiệu về nhân vật lịch sử, cụ thể là tấm gương chiến đấu của anh Phan Đình Giót, anh Tô Vĩnh Diện tôi thể hiện giọng chậm rãi, sâu lắng, nhấn giọng khi nhắc đến tình huống hi sinh dũng cảm của các anh. Đối với các sự kiện lịch sử, tôi lại trình bày với giọng nói rõ ràng, mang tính chất tường thuật, lưu ý những mốc thời gian gắn với sự kiện diễn ra tại thời điểm nào, kết hợp phương tiện trực quan để làm rõ ý cần minh hoạ. Trong từng tiết dạy tôi thường dành ít phút thời gian để có những cuộc trao đổi nhỏ với các em, từ đó sẽ giúp bản thân định hướng thêm trong bài dạy của mình. Sau mỗi tiết tôi thường đặt ra các câu hỏi dạng như: Sau bài học hôm nay, em có suy nghĩ gì ? Bài học hôm nay, em tâm đắc nhất điều gì ? Ý kiến của em về vấn đề này như thế nào ?
-Ngoài ra, tôi luôn quan tâm phát huy vai trò chủ động trong hoạt động dạy học của học sinh qua việc yêu cầu các em sưu tầm những tư liệu, thu thập thông tin liên quan đến môn học. Khai thác môi trường học tập của các em đối với môn lịch sử quả thật là rộng lớn, nơi các em ở, vui chơi học tập, một cái tên đường, một áp phích tuyên truyền, một di vật, một địa danh lịch sử cũng đủ làm gợi ý tò mò của các em. Chính vì vậy các em cần có thói quen quan sát cuộc sống xung quang mình. Vì đây là nguồn tư liệu vô cùng quý giá không chỉ đối với môn lịch sử nói riêng, mà của tất cả các môn học khác. Bởi vậy, tôi luôn giúp các em hình thành thói quen sưu tầm tư liệu lịch sử thông qua việc giao nhiệm vụ cụ thể, phù hợp qua từng tiết dạy, chủ điểm tháng tuần.
-Xây dựng lớp học thân thiện là điều cần thiết và trong đó tôi không thể bỏ qua môn lịch sử. Tại góc học tập của lớp tôi luôn dành một phần nhỏ để các em trưng bày những tư liệu lịch sử mà các em đã sưu tầm được. Trong các buổi hoạt động ngoài giờ lên lớp tôi luôn cùng đồng nghiệp chuẩn bị chu đáo nội dung và trong những nội dung ấy không thể thiếu nội tìm hiểu về các nhân vật hay sự kiện lịch sử.
a. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp.
-Ngay từ bậc Tiểu học ở lớp 5, các em đã được học Lịch sử qua một phân môn rõ rệt mà không lồng ghép chúng với bất cứ phân môn nào. Có chăng, đó là sự bổ sung thêm kiến thức Lịch sử cho các em từ các phân môn khác ( ví dụ: phân môn kể chuyện, đạo đức, tập làm văn, tập đọc….). Điều này càng cho chúng ta thấy, việc dạy Lịch sử trong nhà trường là điều cần thiết và quan trọng không thể lơ là. Vậy làm thế nào để các em yêu thích môn Lịch sử, các em tự tìm đến với Lịch sử của dân tộc. Chính vì vậy trong đề tài này tôi nghiên cứu và tìm ra các biện pháp giúp học sinh học tốt môn Lịch sử. Và đây cũng chính là niềm trăn trở của tất cả chúng ta, những người làm công tác “ trồng người”.
b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp.
-Như chúng ta đã biết đổi mới phương pháp dạy học là tạo ra quá trình chuyển từ dạy học truyền thụ một chiều, dựa vào trí nhớ và bắt chước, thầy giảng trò nghe, thầy đọc trò chép sang việc dạy học nhằm phát triển nhân cách toàn diện trong đó điểm nhấn mạnh là năng lực sáng tạo tư duy và hành động của học sinh. Người dạy phải biết “nhập” các phương pháp dạy học hoàn toàn hiện đại, mới lạ vào nhà trường, khai thác những ưu điểm vốn có của các phương pháp dạy học hiện hành đồng thời từng bước tiến hành các phương pháp dạy học hiện đại, sử dụng phương pháp đồ dùng dạy học hiện đại một cách phù hợp, có hiệu quả. Muốn đổi mới phương pháp dạy học và cách thức hoạt động học tập của học sinh, phải đổi mới phương pháp dạy học của giáo viên và từng bước đổi mới môi trường dạy học, chuyển từ môi trường dạy học thô sơ, đơn điệu, cứng nhắc … sang môi trường dạy học giàu sáng tạo, tương tác thân thiện, gắn bó với cuộc sống, giàu công nghệ.
-Để giúp học sinh học tốt môn lịch sử nhằm đưa chất lượng giáo dục có chất lượng và hiệu quả ngày một nâng cao, tôi mạnh dạn đưa ra một số biện pháp sau:
Biện pháp 1:
-Phát huy tính tích cực của học sinh qua các phương pháp dạy học Lịch sử.
Thứ nhất: Vì trong việc sử dụng phương pháp dạy học không có phương pháp nào là vạn năng. Trong thực tế cũng như trong dạy học không có giáo viên nào lại không biết kết hợp đồng thời các phương pháp. Tường thuật chỉ có thể có hiệu quả khi nó được kết hợp giữa các phương pháp nhưng trong đó giáo viên phải biết lựa chọn một phương pháp chính sẽ đem lại hiệu quả cao. Chính vì vậy tôi mạnh dạn lựa chọn một số phương pháp tuy nhiên đây chưa hẳn là những phương pháp tốt. Muốn hiệu quả thì phải được vận dụng vào cụ thể từng bài, sự thiết kế, kết hợp chặt chẽ với các phương pháp khác trong từng bài giảng.
Thứ hai: Bộ môn Lịch sử ở Trường Tiểu học được giảng dạy với tư cách là môn khoa học mà đặc trưng cơ bản của nó là học sinh không trực tiếp quan sát. Sự kiện Lịch sử là cơ sở của nhận thức Lịch sử. Muốn học sinh nắm được các kiến thức phổ thông, cơ bản của Lịch sử thì trước hết phải cung cấp cho các em một hệ thống những sự kiện Lịch sử cơ bản. Sự kiện Lịch sử phải được học sinh thể hiện lại một cách sinh động, cụ thể có hình ảnh. Không khí giờ học phải được tạo ra chính sự sống động của sự kiện Lịch sử. Chính vì vậy, các biện pháp sư phạm được áp dụng trong giờ học Lịch sử phải hết sức khôi phục lại bức tranh của quá khứ. Đương nhiên dạy học Lịch sử không chỉ dừng ở đó mà chúng ta phải biết định hướng giúp các em từng bước từ sự kiện Lịch sử mà khám phá bản chất của sự kiện, hiện tượng hay quá trình Lịch sử. Từ đó giáo dục tư tưởng, tình cảm, bồi dưỡng truyền thống dân tộc.
Thứ ba: Cấu trúc giờ học phải nhẹ nhàng, gây được hứng thú, bất ngờ và hấp dẫn học sinh. Không nhất thiết vào đầu giờ học là phải kiểm tra bài cũ. Việc kiểm tra kiến thức cũ của học sinh được tiến hành ngay khi cung cấp kiến thức mới có liên quan. Việc củng cố kiến thức cho học sinh cũng vậy, không nhất thiết phải là cuối giờ học. Chính sự thay đổi các bước lên lớp đó sẽ tránh được sự nhàm chán, rập khuôn mà học sinh đã biết trước khi vào giờ học. Đây cũng là một yêu cầu quan trọng khi có được phối hợp các biện pháp để phát triển tư duy cho học sinh, gây hứng thú trong học tập.
Thứ tư: Phải xuất phát từ đối tượng cụ thể từng lớp học, xem xét khả năng nhận thức của học sinh mà tìm ra biện pháp phát triển ở các em mặt nào đó của tư duy Lịch sử. Tư duy bao giờ cũng xuất phát từ cái cụ thể. Tư duy Lịch sử bao giờ cũng nhiều nội dung, nhiều cung bậc khác nhau, từ đơn giản đến phức tạp. Đó là tư duy tái tạo, trí tưởng tượng khả năng phân tích, so sánh, trí nhớ, tư duy tổng hợp, tư duy lôgic... Mỗi kiến thức Lịch sử lại đòi hỏi một khả năng khác nhau của tư duy học sinh. Chính vì vậy ngoài việc sử dụng các biện pháp dạy học, người giáo viên cần phải phân loại được các sự kiện, hiện tượng Lịch sử, xem các kiến thức đó phát triển tư duy nào cho học sinh.
Thứ năm: Giúp học sinh định hướng mục tiêu, xác định nhiệm vụ học tập. Việc xác định mục tiêu của bài học: giúp học sinh khẳng định sau mỗi bài học, học sinh cần đạt được những gì về kiến thức, kĩ năng, thái độ. Từ đó giúp giáo viên dễ dàng đánh giá được việc nắm kiến thức, kĩ năng qua từng bài dạy.
Để làm tốt điều này, trước hết giáo viên phải là người yêu thích môn Lịch Sử, tự trang bị cho mình một vốn kiến thức bên cạnh việc nghiên cứu kĩ sách giáo khoa và các tài liệu, thông tin khác, giáo viên cần xác định mục tiêu cơ bản truyền đạt, hệ thống kiến thức chặt chẽ, liền mạch, khi truyền thụ phải đảm bảo:
-Lời dẫn phải súc tích, giàu tính khái quát và hình ảnh.
-Phải đi sâu vào cái cốt lõi của bài học.
-Phải tạo ấn tượng, gợi trí tò mò cho học sinh.
-Phối hợp giữa lí thuyết và thực hành một cách linh hoạt, chú trọng phát huy năng lực chủ động, sáng tạo của học sinh.
Ví dụ: Khi dạy bài 12. (Lịch sử 5). “Vượt qua tình thế hiểm nghèo” Vì nội dung bài này khá gần gũi với các em và tình hình thực tế của đất nước ta trong giai đoạn 1945. Giáo viên giao nhiệm vụ cho các em sưu tầm tranh ảnh, tư liệu về cảnh nhân dân ta đẩy lùi giặc đói, giặc giốt, hình ảnh Bác giúp dân. Hướng dẫn học sinh trình bày trong nhóm và trước lớp. Qua sự hướng dẫn của giáo viên, đặc biệt là khi hoạt động cần dựa vào tình hình thực tế của lớp để lựa chọn phương pháp, hình thức tổ chức phù hợp. Đây chính là cách giúp học sinh chủ động kiến thức thông qua sự dẫn dắt của giáo viên.
Biện pháp 2: Sử dụng sách giáo khoa nhằm phát triển tư duy cho học sinh.
-Về mặt lí luận, sử dụng sách giáo khoa như thế nào để dạy học Lịch sử đã được đề cập đến trong nhiều giáo trình, tài liệu tham khảo. Song trong thực tế việc sử dụng sách giáo khoa của giáo viên còn chưa được thống nhất, chưa phát huy được năng lực tư duy cho học sinh. Vậy nên sử dụng như thế nào cho có hiệu quả.
-Chúng ta biết rằng sách giáo khoa là tài liệu viết cho học sinh. Nó cũng là cơ sở để giáo viên chuẩn bị bài giảng, xác định hệ thống kiến thức để dạy cho học sinh. Có thể phân ra 3 phương pháp sử dụng sách giáo khoa: Phương pháp sử dụng sách giáo khoa để chuẩn bị bài giảng, phương pháp sử dụng sách giáo khoa trong quá trình dạy học trên lớp, phương pháp sử dụng sách giáo khoa để học tập ở nhà của học sinh.
*Sử dụng sách giáo khoa để chuẩn bị bài giảng:
-Trước khi soạn giáo án cần nghiên cứu nội dung toàn bài trong sách giáo khoa, xác định kiến thức cơ bản của bài, hiểu rõ nội dung, tinh thần mà tác giả mong muốn ở học sinh về từng mặt kiến thức, thái độ, kĩ năng... Khi đã có cái nhìn toàn cục, khái quát, đi sâu từng mục nhằm tìm ra kiến thức cơ bản của mục đó, sự liên quan đến kiến thức đó đối với kiến thức cơ bản của toàn bài. Mỗi bài có từ 3 đến 4 nội dung, có liên quan chặt chẽ với nhau. Song không nên dàn đều về mặt thời gian cũng như khối lượng kiến thức của từng phần mà phải xác định phần nào lướt qua, phần nào là trọng tâm. Mỗi bài cần xác định rõ phần đóng góp cụ thể về mặt nội dung, thái độ, kĩ năng, kĩ xảo có nghĩa là giáo viên cần xác định rõ cần cung cấp kiến thức gì, giáo dục tư tưởng tình cảm gì? kĩ năng nào cần rèn luyện cho học sinh.
*Sử dụng sách giáo khoa trong quá trình giảng dạy trên lớp.
-Trong quá trình trên lớp học sinh vừa nghe giảng, vừa ghi chép vừa theo dõi sách giáo khoa. Chúng ta không nên quan niệm rằng chỉ khi học sinh phát biểu trả lời câu hỏi của giáo viên thì mới gọi là phát triển tư duy. Trong giờ học, học sinh chăm chú theo dõi bài giảng, tái tạo lại hình ảnh của sự kiện lịch sử biết ghi chép đó là tư duy của các em phát triển. Nói như vậy là không có nghĩa là học sinh chỉ nghe giảng mà ghi chép. Tính tích cực hoạt động học tập của học sinh sẽ được biểu hiện qua nét mặt ánh mắt các thao tác của giác quan và bằng sự nhạy cảm của giáo viên qua quan sát lớp học, theo dõi thái độ của học sinh, người giáo viên sẽ phát hiện được học sinh có tích cực hoạt động tư duy hay không từ đó mà điều chỉnh các thao tác sư phạm cho phù hợp.
-Vì học sinh thường theo dõi lời giảng của giáo viên rồi đối chiếu so sánh với sách giáo khoa. Vì vậy bài giảng của giáo viên không nên lặp lại ngôn ngữ mà nên diễn đạt bằng lời của mình.
Ví dụ: Bài 23. Sấm sét đêm giao thừa (Lớp 5) có thể sử dụng đoạn này để miêu tả và kể cho học sinh thấy được cảnh trận đánh đêm 30 Tết Mậu Thân 1968 “Trận đánh của quân giải phóng vào Sứ quán Mĩ đã làm cho những kẻ đứng đầu Nhà Trắng, Lầu Năm Góc và cả thế giới sửng sốt. Thời khắc giao thừa tới, một tiếng nổ rầm trời rung chuyển sứ quán Mĩ, làm sập một mảng tường bảo vệ. Các chiến sĩ đặc công lập tức bắn chết 4 tên lính gác, lao vào chiếm giữ tầng dưới Sứ quán Mĩ. Lính Mĩ bảo vệ Sứ quán chống trả quyết liệt nhưng không đẩy lùi được cuộc tiến công của ta. Địch phải dùng máy bay lên thẳng chở thêm lính Mĩ đổ xuống nóc Sứ quán để phản kích. Bọn chỉ huy hoảng hốt, bí mật đưa Đại sứ quán Mĩ chạy khỏi Sứ quán bằng xe bọc thép. Cuộc chiến ở đây diễn ra suốt 6 giờ đồng hồ, khiến cho Đại sứ quán Mĩ bị tê liệt.
-Như vậy những đoạn chữ nhỏ trong sách giáo khoa phải được sử dụng triệt để. Nếu nó đề cập đến những kiến thức khó thì giáo viên lấy đó làm tư liệu dùng để miêu tả hoặc kể chuyện. Nếu dễ có thể cho học sinh cùng tìm hiểu. Điều quan trọng ở chỗ là không nên làm một cách hình thức mà phải kiểm tra khả năng cảm thụ, nhận thức của học sinh như thế nào sau khi tìm hiểu đoạn đó.
*Hướng dẫn học sinh sử dụng sách giáo khoa để học ở nhà.
-Vở ghi trên lớp và sách giáo khoa là phương tiện là nguồn kiến thức chủ yếu để học sinh tự học ở nhà. Hiện nay do nhiều lí do, ở nhà học sinh thường chỉ học phần ghi nhớ cuối mỗi bài học hoặc nếu học theo hệ thống câu hỏi trong sách giáo khoa thì quá dài các em không có điều kiện nhớ hoặc dễ chán nản. Làm thế nào các em có hứng thú, có nhu cầu khi đọc sách ở nhà ? Không nên chỉ có dặn dò chung chung “các em ôn lại bài cũ và đọc trước bài mới trong sách giáo khoa ở nhà”. Nếu dặn dò như vậy các em sẽ chẳng làm gì cả.
Biện pháp 3: Đẩy mạnh việc đổi mới phương pháp hoạt động theo các hình thức.
-Để tổ chức tốt các hoạt động học tập cho học sinh trên lớp giáo viên cần hạn chế tối đa việc thuyết trình, giảng giải, tạo mọi điều kiện để học sinh chủ động, tích cực làm việc với các phương tiện Lịch sử, trao đổi với nhau trong quá trình tìm kiếm, lĩnh hội tri thức, rèn luyện kĩ năng giáo viên cần chú ý:
*Định hướng tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh.
-Trước hết khi yêu cầu học sinh thực hiện một hoạt động cần định hướng cho học sinh về việc sắp làm, cần nêu nhiệm vụ, yêu cầu đối với học sinh hay nói cách khác cần
“lệnh” cho mỗi hoạt động rõ ràng. Ví dụ: Quan sát lược đồ, đọc thông tin sách giáo khoa từ … và hoàn thành bài tập … thời gian làm việc là … phút.
-Phải dành thời gian cho học sinh hoàn thành nhiệm vụ và trình bày kết quả theo đúng kế hoạch đã định. Còn giáo viên cần có thái độ cởi mở, thân thiện với học sinh, khen ngợi, động viên kịp thời, có phê bình nhưng một cách tế nhị để giúp học sinh tự tin và tự nhiên hơn trong hoạt động học tập hạn chế tính tự ti, lười hoạt động. Để giúp học sinh thuận lợi và có hiệu quả trong quá trình hoạt động giáo viên cần chú trọng việc tìm hiểu kiến thức qua các phương tiện lịch sử như: Bản đồ, lược đồ, bảng thống kê, tranh ảnh … Kĩ năng làm việc độc lập(cá nhân ) hay nhóm nhỏ.
*Hình thức tổ chức dạy học theo nhóm.
-Trong điều kiện đa số học sinh học đều có số lượng đông, chưa có bàn ghế rời …thì giáo viên nên áp dụng hình thức tổ chức nhóm theo cặp, theo bàn hoặc hai bàn ngồi quay lại nhau. Với những bài tập nhỏ thì lựa chọn hình thức theo cặp, với những bài tập khó, có nhiều việc phải làm hoặc thảo luận mới đi tới kết quả thì nên tổ chức theo nhóm lớn. Nhưng khi tổ chức giáo viên cần lưu ý:
-Làm việc chung cả lớp: Trước hết giáo viên nêu vấn đề, xác định nhiệm vụ, kiến thức. Nếu là hoạt động nhóm thì phải có thêm việc chia nhóm và giao nhiệm vụ sau đó hướng dẫn cách làm.
-Làm việc theo nhóm: Trước hết phân công nhiệm vụ (cử nhóm trưởng, thư kí, nhiệm vụ của từng thành viên), Tiếp theo trao đổi, thảo luận trong nhóm và cùng hoàn thành nhiệm vụ, đại diện nhóm trình bày kết quả.
-Làm việc cả lớp( thảo luận, tổng kết hoạt động): Các nhóm, cá nhân nhận xét, đóng góp ý kiến, bổ sung. Giáo viên tổng kết và chuẩn xác kiến thức. Trong trường hợp học sinh đã có đáp án đúng thì giáo viên không cần phải đưa ra đáp án của mình mà chỉ nên công nhận, đánh giá ngay kết quả làm việc của học sinh, nhằm tiết kiệm thời gian, tránh sự lặp đi, lặp lại đồng thời động viên, khuyến khích những thành tích kịp thời của học sinh. Sau cùng giáo viên nên có nhận xét ngắn gọn về tình hình làm việc của học sinh hặc các nhóm, rút kinh nghiệm cho cá nhân hoặc nhóm làm việc chưa được tốt.
*Sử dụng phiếu học tập trong hoạt động nhóm.
-Để hoạt động nhóm không mất nhiều thời gian giáo viên nên sử dụng phiếu học tập. Phiếu học tập là những tờ giấy rời, trên đó ghi các câu hỏi hoặc bài tập mà học sinh phải hoàn thành trong một thời gian nhất định. Nếu trong điều kiện không thể in phiếu học tập, giáo viên có thể ghi nhanh lên góc bảng các câu hỏi bài tập để học sinh tiện theo dõi và hoàn thành đúng các yêu cầu của hoạt động.
Biện pháp 4: Khai thác vốn kiến thức đã có của học sinh.
-Vấn đề phát huy tính tích cực của học sinh đã được đặt ra trong nền giáo dục nước ta nhiều năm nay có thể nói cốt lõi của vấn đề này là hướng tới hoạt động học tập chủ động của học sinh. Học tập là hoạt động chủ đạo ở lứa tuối đi học. Tính tích cực trong hoạt động học tập của học sinh, về thực chất là tính tích cực nhận thức, đặc trưng ở khát vọng hiểu biết, cố gắng trí tuệ và nghị lực cao của các em trong chiếm lĩnh kiến thức, đồng thời cũng muốn có cơ hội để thể hiện sự hiểu biết, truyền đạt những hiểu biết của mình tới bạn bè.
-Khác với quan niệm trước đây, dạy học là quá trình truyền thụ của người thầy tới người học. Trong dạy học ngày nay, giáo viên không chỉ đóng vai trò tổ chức, hướng dẫn để học sinh có cơ hội tìm tòi, chiếm lĩnh kiến thức, mà còn phải biết cách khai thác vốn kiến thức đã có của học sinh, giúp các em xác lập mối quan hệ giữa kiến thức đã biết và kiến thức mới. Làm được như vậy chính là phát huy được tính tích cực chủ động của học sinh trong học tập.
-Vốn kiến thức của học sinh được nâng cao nhờ hoạt động của các em. Trong quá trình tiếp xúc với thế giới xung quanh, trẻ được tích lũy vốn kinh nghiệm. Khi dạy cho học sinh một kiến thức nào đó, người giáo viên nói riêng và người lớn nói chung cần biết các em đã biết những gì, biết đến đâu, biết nhiều hay ít về kiến thức đó, Qua đó giúp các em xác lập được mối quan hệ giữa điều các em đã biết và những điều các em cần biết. Quá trình lĩnh hội tri thức sẽ không chỉ do người lớn truyền thụ, mà quan trọng hơn là phải do chính các em tự tìm tòi khám phá, giải quyết, đó chính là dạy cho các em cách học. Việc khai thác vốn kiến thức đã có của học sinh để dạy học sinh chính là yêu cầu đổi mới của phương pháp dạy học. Dưới sự hướng dẫn của giáo viên nhưng kiến thức đã có của học sinh có liên quan đến kiến thức mới sẽ được “sống dậy” “chắp nối lại”. Trong mối liên hệ với kiến thức mới thông qua hoạt động của các em.
-Tổ chức hoạt động học tập của học sinh sẽ có hiệu quả khi các em được trao đổi, thảo luận, tranh luận với các bạn trong nhóm, trong tổ. Học sinh với tư cách là một cá thể hoạt động độc lập, vốn kinh nghiệm của mỗi em một khác. Do vậy quá trình trao đổi sẽ giúp các em bộc lộ ý kiến, đồng thời thu nhận kinh nghiệm từ phía các bạn. Hoạt động học tập của các em trở nên tích cực, tự giác hơn.
-Dạy học là dạy cho học sinh những cái chưa biết, trên cơ sở những cái đã biết. Điều này được coi là nguyên tắc. Để vận dụng quan điểm này việc cung cấp cho học sinh những kiến thức khoa học để đạt được các chuẩn kiến thức đã được quy định trong chương trình phải dựa trên cơ sở những kiến thức đã có của học sinh. Có nhiều cách để làm việc này nhưng theo tôi để giúp học sinh vận dụng vốn kiến thức đã có và khai thác kiến thức mới một cách tích cực thì phải có những kĩ năng sau:
* Kĩ năng đặt câu hỏi:
-Những câu hỏi mà giáo viên đưa ra cần phải giúp học sinh tìm ra những điều các em đã biết và phát triển thêm những ý mới nhằm tạo ra mối liên hệ với các kiến thức đã có và những kiến thức cần phải có. Câu hỏi phải vừa sức với đối tượng học sinh.
Ví dụ. khi dạy bài 26“Chiến thắng Điện Biên Phủ trên không” (lịch sử 5) Để trả lời được câu hỏi lệnh trong sách giáo khoa là: Tại sao lại gọi chiến thắng 12 ngày đêm cuối năm 1972 ở Hà Nội và các thành phố khác ở miền Bắc là chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không”? Trả lời được câu hỏi này thì bắt buộc các em phải sử dụng vốn kiến thức đã học ở bài 17 Chiến thắng Điện Biên Phủ để giải thích được: Vì sau chiến thắng này Mĩ phải thừa nhận thất bại ở Việt Nam, ngồi vào bàn đám phán tại Pa-ri về việc chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam giống như Pháp phải kí hiệp định Giơ-ne-vơ sau chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954. Nhằm thấy được chiến thắng 12 ngày đêm cuối năm 1972 ở Hà Nội ngang tầm với Điện Biên Phủ năm 1954.
*Hướng dẫn khai thác kiến thức từ kênh hình.
-Kênh hình bao gồm bản đồ, lược đồ tranh ảnh lịch sử, là những phương tiện dạy học rất đặc trưng của bộ môn lịch sử nó giúp cho học sinh tái hiện những sự kiện, nhân vật trong quá khứ theo xu hướng hiện nay là giảm bớt thuyết trình của giáo viên tạo điều kiện để học sinh học tập tích cực nên chúng được sử dụng như là một nguồn cung cấp kiến thức giúp cho học sinh tìm tòi, phát hiện những kiến thức và rèn luyện kĩ năng bộ môn chứ không chỉ để minh họa cho lời giảng của giáo viên. Như vậy kênh hình là đối tượng để học sinh chủ động, tự lực khai thác kiến thức dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Muốn khai thác kênh hình có hiệu quả, cần thực hiện một số yêu cầu sau:
*Về phía giáo viên:
-Nắm chắc chương trình.
-Xác định rõ kiến thức nội dung trong bài mà học sinh cần hiểu biết qua kênh hình.
-Chuẩn bị một số câu hỏi cho phù hợp với trình độ học sinh, gợi ý để các em biết tự giác khai thác kiến thức từ kênh hình.
-Kịp thời động viên khuyến khích và đánh giá học sinh.
*Về phía học sinh:
-Được rèn luyện một số kĩ năng khai thác kiến thức từ kênh hình.
-Hiểu được yêu cầu do giáo viên đưa ra khi thực hiện khai thác kiến thức từ kênh hình.
-Tích cực, chủ động tìm tòi, phát hiện kiến thức từ hệ thống kênh hình.
+Các bước khai thác kênh hình:
-Hướng dẫn học sinh tham gia một “chuyến du lịch” bằng cách giới thiệu sơ lược và hấp dẫn những hình ảnh trong hệ thống kênh hình.
-Nêu mục đích làm việc với kênh hình.
-Đưa ra những câu hỏi gợi ý để học sinh có cơ sở khai thác kiến thức từ kênh hình.
-Tổ chức cho học sinh trả lời câu hỏi trên cơ sở các em tự phát hiện kiến thức mới.
-Tạo cơ hội cho học sinh nhận xét, bổ sung trước khi đi đến kết luận.
Tóm lại: Dạy học tích cực, thực chất là quá trình hướng dẫn học sinh cách học, quá trình đó không chỉ là do giáo viên truyền thụ, mà quan trọng hơn là do chính các em tìm tòi khám phá, giải quyết. Việc khai thác vốn kiến thức sẵn có của học sinh trong dạy học Lịch sử có nhiều cách khác nhau, tùy thuộc vào khả năng của mỗi giáo viên, vào đối tượng học sinh, vào thiết bị và phương tiện dạy học. Song khi sử dụng các yêu cầu, kĩ năng trên giáo viên cần lưu ý:
+Đặt câu hỏi cho học sinh trả lời:
-Với cách này câu hỏi đưa ra phải tạo cơ hội cho học sinh bộc lộ sự hiểu biết vốn có của mình, tránh trường hợp chỉ cần đọc bài học là trả lời được.
+Tổ chức cho học sinh thảo luận nhóm:
-Thảo luận nhóm giúp cho học sinh được chia sẻ sự hiểu biết với nhau, bù đắp cho nhau những hiểu biết chưa đầy đủ, qua đó mỗi học sinh tự lĩnh hội những kiến thức mình chưa hiểu. Đây là phương pháp học tập hợp tác đem lại hiệu quả rõ rệt.
+Hướng dẫn học sinh khai thác từ kênh hình:
-Với sách giáo khoa kiến thức không chỉ nằm ở hệ thống kênh chữ mà còn biểu hiện ở hệ thống kênh hình, vì vậy cần hướng dẫn học sinh kênh hình chính là khai thác vốn kiến thức sẵn có của học sinh, để các em tự nói lên những hiểu biết vốn có của mình. Làm được như vậy học sinh sẽ hiểu bài sâu và nhớ lâu những kiến thức đã học.
Biện pháp 5: Sử dụng thơ ca, câu đố vào bài giảng.
-Việc vận dụng kiến thức thơ ca, câu đố vào giảng dạy lịch sử là việc làm hết sức hiệu quả nhằm gây hứng thú học tập cho học sinh.
-Thơ ca, câu đố nói chung với ưu thế của nó là dễ thuộc, dễ đi vào lòng người… sẽ là một thế mạnh trong việc hỗ trợ đắc lực cho việc dạy và học Lịch sử thông qua đó góp phần giáo dục đạo đức, lòng biết ơn đối với truyền thống, lãnh tụ cũng như anh hùng liệt sĩ đã hi sinh, đã đóng góp xương máu của mình để làm rạng rỡ thêm Lịch sử nước nhà.
Ví dụ: Khi dạy bài 14 “Thu- Đông 1947,Việt Bắc“mồ chôn giặc Pháp” (lịch sử lớp 5) Vừa chỉ vào bản đồ giáo viên vừa nói: “Đây đường quốc lộ số 3, bộ đội và du kích của ta đã bao vây quân địch nhảy dù xuống Việt Bắc như Bắc Cạn, Chợ Đồn...Còn trên đường thủy ta đánh hàng chục trận lớn nhỏ như chiến thắng Bình Ca - Đoan Hùng. Ngoài ra, trên đường bộ dọc theo quốc lộ số 4 ta đã phục kích đánh nhiều trận, điển hình là trận phục kích trên đèo Bông Lau...”. Kết thúc diễn biến trận đánh, giáo viên chỉ tay lên bản đồ hỏi: “Tại sao Pháp chọn đánh Việt Bắc?”. Nếu học sinh chần chừ, giáo viên gợi ý bằng thơ:
Ở đâu u ám quân thù
Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi
Ở đâu đau đớn giống nòi
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền.
(Việt Bắc- Tố Hữu )
-Từ những câu thơ học sinh sẽ biết được “Việt Bắc là nơi các cơ quan trung ương của Đảng và Chính phủ ta đang lấy làm căn cứ. Đánh vào Việt Bắc là đánh vào cơ quan đầu não của ta”. Kết thúc tiết học, để mở rộng cho học sinh thấy được sự gian khổ của quân và dân ta trong kháng chiến giáo viên có thể hỏi “Em có biết những ngày tháng khó khăn nhưng đằm thắm nghĩa tình đồng chí, đồng bào ở Việt Bắc như thế nào không”. Sau khi học sinh phát biểu giáo viên có thể kết luận bằng những câu thơ như sau:
“Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Ðịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô
Nhớ sao lớp học i tờ
Đường khuya đuốc sáng những giờ liên hoan...”.
(Việt Bắc- Tố Hữu )
-Qua thực tế vận dụng thơ ca, câu đố vào dạy học lịch sử tôi thấy là rất có hiệu quả, các em không cần suy nghĩ, cố công học thuộc lòng mà vẫn nhớ được các sự kiện, nhân vật lịch sử …không những thế nó còn bồi dưỡng kĩ năng làm văn cho các em. Tuy nhiên giáo viên phải vận dụng sáng tạo, không nên lạm dụng, quá tải trong việc vận dụng kiến thức thơ ca, câu đố luôn luôn đảm bảo tính vừa sức của học sinh. Các kiến thức thơ văn vận dụng cần phải có nguồn gốc xuất xứ chính xác, rõ ràng. Khi đọc thơ văn giáo viên phải đọc có cảm xúc, truyền cảm, có khả năng đi vào lòng người.
c. Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp.
-Các biện pháp, giải pháp mà tôi áp dụng cho đề tài đã qua thực nghiệm và khảo sát nên mang lại hiệu quả của giáo dục rất khả quan. Và được sự đồng tình, ủng hộ của cán bộ, giáo viên nhà trường về những đề xuất của đề tài. Song bên cạnh đó do học sinh là con em nông thôn nên trong quá trình thực hiện ban đầu có phần hạn chế vì đồ dùng dạy học chưa phong phú. Đa số các em chưa yêu thích môn học này.
-Để áp dụng các biện pháp trên thành công yêu cầu người giáo viên phải có kiến thức chuyên sâu về sử học. Thường xuyên sưu tầm, cập nhật tài liệu, kiến thức Lịch sử thường xuyên qua thông tin đại chúng. Để các biện pháp trên thành công giáo viên phải biết áp dụng công nghệ thông tin vào bài giảng, phải nhiệt tình, tâm huyết với nghề nghiệp, đầu tư trí tuệ cũng như thời gian và “làm mới” bài giảng của mình nhằm gây sự hứng thú cho học sinh.
-Trong giờ học giáo viên cần kết hợp các phương pháp dạy học cũng như hình thức dạy học một cách khoa học, không máy móc, không rập khuôn mà phải phụ thuộc vào nội dung bài giảng và đối tượng học sinh.
d. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp.
-Các biện pháp mà đề tài đặt ra tuy nhỏ nhưng mang lại hiệu quả khá cao, có quan hệ mật thiết và hỗ trợ lẫn nhau. Để giúp học sinh học tốt môn học này giáo viên cần sử dụng nhuần nhuyễn 5 biện pháp trên một cách linh hoạt, sáng tạo. Việc học sinh hứng thú, yêu thích môn lịch sử sẽ là cơ sở để giúp các em hiểu bài nhanh không những thế còn sôi nổi, hứng thú và hiệu quả cao hơn. Chính vì thế trong quá trình giảng dạy người giáo viên phải biết sử dụng phối hợp cả 5 phương pháp trên để giờ dạy mang lại hiệu quả cao hơn.
e. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu.
-Sau thời gian nghiên cứu, áp dụng đề tài vào thự tế, đổi mới phương pháp dạy học và sau khi tiến hành khảo sát cuối học kì I, tôi nhận thấy hiệu quả nâng lên rõ rệt so với khảo sát đầu năm học: 2015 – 2016, như sau:
-Trong lớp có: 27/29 HS yêu thích, hứng thú học môn Lịch sử, (chiếm 93%); 2/29 HS chưa hứng thú học môn lịch sử, (chiếm 7%).
II.4. Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu.
-Sau khi nghiên cứu và thực nghiệm phương pháp dạy học mới tôi nhận thấy chất lượng học Lịch sử của các em được nâng lên rõ rệt. Qua đợt kiểm tra chất lượng cuối học kì I năm học: 2015- 2016. Được thể hiện cụ thể trong bảng sau:
a. Kết quả đạt được.
Lớp |
Tổng số HS |
Hoàn thành |
Tỉ lệ |
Chưa hoàn thành |
Tỉ lệ |
5A |
29 |
28 |
97% |
1 |
3% |
-Trong quá trình nghiên cứu và áp dụng thành công các biện pháp nêu trên vào bài giảng, tôi nhận thấy kết quả rất khả quan. Học sinh hào hứng, tích cực hơn vì qua tiết học các em không những lĩnh hội cho mình những kiến thức sử học mới, bổ ích mà còn mang lại cho các em sự sảng khoái, tự tin để học tập các môn tiếp theo.
-Học sinh nắm bắt kiến thức sử học một cách nhẹ nhàng không máy móc.
-Giáo viên cũng cảm thấy không nặng nề khi dạy lịch sử đặc biệt là trong hội giảng.
-Nhận thức về vị trí môn học của phụ huynh được thay đổi, họ chú trọng hơn trong việc học ở nhà của con em mình.
-Trong hội thi “Nhà sử học nhỏ tuổi” do Liên đội tổ chức các em làm bài tốt.
-Đặc biệt là chất lượng sử học của các em thể hiện trên bài kiểm tra rất khả quan. Học sinh đạt hoàn thành ngày một nâng lên, học sinh chưa hoàn thành giảm xuống. Đây là một tín hiệu phấn khởi cho bản thân tôi và những người làm công tác giáo dục nói chung.
b. Bài học kinh nghiệm.
*Để nâng cao hiệu quả trong dạy học Lịch sử thì cần phải:
-Bồi dưỡng tình cảm, giáo dục thái độ: Học chủ động, sáng tạo; giáo viên dạy học theo phương pháp đổi mới, hướng dẫn, tổ chức hoạt động dạy học cho học sinh.
-Thiết kế bài giảng phải khoa học, xác định rõ hoạt động của giáo viên và học sinh (câu hỏi đặt ra phải hợp lí có tính chất phân loại học sinh, bài học cần xác định nội dung trọng tâm, vừa sức, giúp học sinh nắm vững bản chất kiến thức, tránh ghi nhớ máy móc).
-Ứng dụng công nghệ thông tin, sử dụng thiết bị dạy học, thực hành, liên hệ thực tế.
-Ngôn ngữ, tác phong của giáo viên chuẩn mực.
-Dạy học sát từng đối tượng học sinh.
-Bắt đầu tiết học nhẹ nhàng, tự nhiên phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí của học sinh tiểu học.
-Sưu tầm các tư liệu về các sự kiện lịch sử, giúp học sinh nắm vững kiến thức lịch sử kể cả lịch sử địa phương.
III. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
III.1. Kết luận.
-Qua quá trình nghiên cứu lí luận và thực tiễn, tìm hiểu về thực trạng của việc dạy Lịch sử ở trường Tiểu học ............ nói riêng và ở Tiểu học nói chung. Tôi đã nghiên cứu và áp dụng khá thành công các biện pháp nhằm giúp học sinh phát huy tính tích cực trong dạy học Lịch sử trong cuối học kì I vừa qua với kết quả khả quan. Nhớ lời bác Hồ dạy “Dù khó khăn đến đâu cũng tiếp tục thi đua dạy tốt hoc tốt”. Mặc dù còn nhiều khó khăn trong giảng dạy và giáo dục học sinh, nhưng tôi tin rằng “Mỗi giáo viên đều có thể vượt qua khó khăn và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao bằng chính sự tận tâm của mình”. Từ đó đúc kết kinh nghiệm cho bản thân và tìm ra giải pháp để hướng tới mục tiêu là nâng cao chất lượng giáo dục.
-Qua đây chúng ta nhận thấy rằng cần phải đổi mới phương pháp dạy học. Những kinh nghiệm cần tiếp tục được tập hợp, phổ biến và nhân rộng như: Tiếp tục sử dụng hợp lí các phương pháp dạy học Lịch sử, đặc biệt tích cực sử dụng giáo án điện tử vào bài dạy, đảm bảo đặc trưng bộ môn và gây hứng thú cho học sinh. Gây xúc cảm và giáo dục tư tưởng cho học sinh qua từng tiết học Lịch sử. Đảm bảo sự cân đối giữa hoạt động của giáo viên và học sinh trong giờ học. Trong đó đặc biệt coi trọng việc thiết kế các hoạt động nhận thức độc lập của học sinh. Tiếp tục phấn đấu theo hướng giảm phần thuyết trình của giáo viên để học sinh được hoạt động nhiều hơn. Tiếp tục làm phong phú những kinh nghiệm rèn kĩ năng học tập bộ môn cho học sinh, mỗi giáo viên cần xác định vai trò chủ đạo của mình trong đổi mới phương pháp dạy học, trước hết phải tìm tòi phương pháp truyền đạt có hiệu quả, kích thích tính tư duy, sáng tạo của học sinh. Chủ động tự học hỏi, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, tìm tài liệu chuẩn phù hợp với nhận thức của học sinh để cung cấp cho các em như: Giáo viên thường xuyên theo dõi cập nhật những thông tin, những số liệu sự kiện Lịch sử qua các phương tiện thông tin (sách, báo, phim ảnh...) để có tư liệu giảng dạy gây hứng thú cho học sinh. Qua đó hướng dẫn học sinh sưu tầm tài liệu để chủ động sáng tạo trong tiếp thu kiến thức.
III.2. Kiến nghị.
+Đối với học sinh.
-Các em cần tích cực học tập, xác định được tầm quan trọng của môn học này, các em cần được động viên, khích lệ kịp thời, đúng lúc để kích thích các em có nhiều tiến bộ, cố gắng vươn lên trong học tập và rèn luyện, đó chính là: nhà trường, gia đình và xã hội.
+Đối với giáo viên.
-Không ngừng học tập, nâng cao trình độ, chuyên môn nghiệp vụ, tìm tòi tích luỹ kinh nghiệm từ đồng nghiệp, các tài liệu liên quan,…
-Nắm chắc nội dung, chương trình sách giáo khoa, dạy sát với từng đối tượng học sinh, lựa chọn phương pháp hình thức tổ chức phù hợp với mỗi dạng bài.
-Cần xác định rõ mục tiêu cho các bài giảng. Đặc biệt là phải tâm huyết với nghề, luôn đặt học sinh làm trung tâm, có trách nhiệm với việc học của học sinh và bài giảng của mình, luôn động viên gần gủi và giúp đỡ học sinh trong quá trình dạy học.
+Đối với nhà trường và các cấp quản lí.
-Nhà trường cần tạo điều kiện cơ sở vật chất tốt nhất, để giáo viên và học sinh giảng dạy và học tập được tốt hơn.
-Tạo mọi điều kiện để giáo viên nâng cao tay nghề qua việc cung cấp các loại sách tham khảo, trang thiết bị phục vụ bộ môn, giao lưu học tập, tập huấn về đổi mới phương pháp dạy học, bố trí nhiều tiết dạy mẫu, để giáo viên vận dụng một cách linh hoạt trong việc giảng dạy với từng đối tượng học sinh.
-Nhà trường tạo điều kiện cho học sinh tham gia các sân chơi: Như tổ chức giao lưu tìm hiểu về kiến thức Lịch sử thế giới cũng như Lịch sử địa phương. Nói chuyện truyền thống qua các ngày lễ lớn trong năm, Đội thiếu niên phát huy các chủ điểm. Làm tốt các cuộc thi phát triển tri thức như: “Nhà sử học nhỏ tuổi” Chủ động trong công tác áp dụng công nghệ thông tin.
-Động viên khuyến khích kịp thời những giáo viên, học sinh đạt nhiều thành tích cao trong giảng dạy và học tập.
-Tăng cường khuyến khích viết đề xuất sáng kiến kinh nghiệm cấp trường, cấp huyện triển khai vào thực tế dạy học.
-Các cấp quản lí giáo dục cần tạo cơ hội và động viên kịp thời khi giáo viên thực hiện đổi mới phương pháp dạy học dù là nhỏ nhất.
-Trên đây là một số kinh nghiệm của tôi trong quá trình giảng dạy và học tập đã rút ra được. Dù đã hết sức cố gắng, nhưng chắc chắn không thể tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót, rất mong được sự nhận xét, góp ý, xây dựng của hội đồng giám khảo, để các biện pháp này mang lại hiệu quả cao hơn và được áp dụng rộng rãi hơn.
-Góp phần giáo dục học sinh trở thành con người vừa hồng vừa chuyên, đủ đức, đủ tài và phát triển toàn diện.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
Lồng ghép một số trò chơi nhỏ trong bài dạy thể dục nhằm tạo hứng thú cho học sinh
01/04/2025 16:44
Lồng ghép một số trò chơi nhỏ trong bài dạy thể dục nhằm tạo hứng thú cho học sinh
Một số biện pháp xây dựng lớp học hạnh phúc tại lớp 5A4
31/03/2025 17:06
Một số biện pháp xây dựng lớp học hạnh phúc tại lớp 5A4
Một số giải pháp vận phương pháp nhóm giúp học sinh dân tộc thiểu số phát huy kĩ năng làm việc nhóm
30/03/2025 07:53
Một số giải pháp vận phương pháp nhóm giúp học sinh dân tộc thiểu số phát huy kĩ năng làm việc nhóm.
Một số giải pháp phát triển kỹ năng viết bài văn miêu tả cho học sinh lớp 5
30/03/2025 11:02
Một số giải pháp phát triển kỹ năng viết bài văn miêu tả cho học sinh lớp 5
Một số biện pháp phát huy tính tự chủ, tự giác, sáng tạo ở học sinh lớp 5
30/03/2025 20:22
Một số biện pháp phát huy tính tự chủ, tự giác, sáng tạo ở học sinh lớp 5
Tổ chức một số trò chơi toán học nhằm gây hứng thú học tập cho học sinh lớp 5
28/03/2025 07:26
Tổ chức một số trò chơi toán học nhằm gây hứng thú học tập cho học sinh lớp 5
Biện pháp nâng cao kĩ năng đọc, nói và nghe trong môn Tiếng Việt 3 theo chương trình GDPT 2018
28/03/2025 09:28
Biện pháp nâng cao kĩ năng đọc, nói và nghe trong môn Tiếng Việt 3 theo chương trình GDPT 2018
28/03/2025 14:09
Biện pháp giúp học sinh tăng cường giải toán bằng hai bước tính góp phần học tốt môn Toán và phát triển năng lực toán học